ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH – NGƯỜI VẬN DỤNG LINH HOẠT, SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM


ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH – NGƯỜI VẬN DỤNG LINH HOẠT, SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TS. Lê Văn Hùng*
TS. Hà Thị Bắc**

1. Mở đầu
Nguyễn Chí Thanh sinh ra và lớn lên trên quê hương Thừa Thiên Huế, vùng đất kiên cường, giàu truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước và cách mạng. Ông được nuôi dưỡng, giáo dục và tiếp thu truyền thống lịch sử hào hùng của quê hương, đất nước, đặc biệt, chứng kiến nhân dân bị áp bức, bóc lột dã man bởi thực dân, đế quốc, phong kiến, ông đã sớm hình thành tư tưởng yêu nước và tinh thần cách mạng. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo, vị tướng tài ba, mưu lược của dân tộc Việt Nam. Khi mới 14 tuổi, ông đã tham gia những hoạt động chống thực dân, phong kiến, rồi sau đó sớm đứng trong hàng ngũ những người cộng sản. Trong hơn 30 năm hoạt động cách mạng, đã trải qua bao khó khăn, thử thách, bị bắt giam và tra tấn nhục hình, nhưng với ý chí, bản lĩnh của người chiến sỹ cộng sản, một lòng kiên trung với Đảng, với nước, với lý tưởng cộng sản, là một cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và luôn tiên phong trên tất cả các mặt trận.  
2. Nội dung
2.1. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Một nhân cách trong sáng, luôn đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là một người liêm khiết, thanh bạch, giản dị, không màng danh lợi, sẵn sàng tiên phong thực hiện mọi nhiệm vụ mà Đảng và Tổ quốc giao phó. Trong hơn 30 năm hoạt động cách mạng, đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất; đã hy sinh, phấn đấu trọn đời cho lý tưởng của Đảng; một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ông đã tỏ rõ phẩm chất của một vị tướng tài thao lược của Quân đội nhân dân Việt Nam, một nhà lãnh đạo gương mẫu, giàu nghị lực và bản lĩnh; một tấm gương sáng ngời của người cộng sản; trung thực, thẳng thắn, chan hòa với đồng bào, đồng chí, đồng đội.
Đặc biệt, đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, theo ông “Chủ nghĩa cá nhân không phải là tư tưởng của một giai cấp nào thuần túy, mà là sản phẩm của chế độ tư hữu và chủ yếu là của giai cấp bóc lột. Chủ nghĩa cá nhân có trong tất cả mỗi con người, không gặp dịp thì nó lắng xuống, có cơ hội thì nó lại lồng lên”[1]. Như vậy, có thể thấy chủ nghĩa cá nhân có gốc rễ sâu xa từ một nền kinh tế tiểu nông, đặc biệt nông dân là người tư hữu nhỏ, luôn quan tâm đến lợi ích cá nhân “ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”; “Đi làng bênh họ, đi họ bênh anh em”... Ông đã phân tích những người bị chủ nghĩa cá nhân chi phối sẽ có những biểu hiện “Người cá nhân chủ nghĩa thì ngồi không yên, đứng không yên, như bị kiến đốt. Thấy cấp trên được đề bạt cũng buồn. Khi chưa được đề bạt thì mong sao được đề bạt, lúc được đề bạt rồi lại chóng chán, muốn làm sao được “đổi ngôi” mau hơn nữa. Thấy đồng chí có gì hơn mình cũng không vui, kém người cái gì đêm nằm đã phải giở mình luôn”[2]. Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên những tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, cục bộ địa phương mà đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã chỉ ra trong đội ngũ cán bộ trước đây vẫn mang tính thời sự sâu sắc, đặc biệt là những đại án tham nhũng đã và đang bị xét xử, những cán bộ trẻ từng được kỳ vọng là “hạt giống đỏ” nhưng lại “không đỏ” như vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Theo đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nghĩa cá nhân là một lực cản tiến lên chủ nghĩa xã hội, thậm chí có nơi, có lúc tự giác hoặc không tự giác, nó phá hoại từng bộ phận của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến chống xâm lược, chủ nghĩa cá nhân biểu hiện trước hết là tư tưởng công thần, kèn cựa, địa vị. Trong hòa bình xây dựng đất nước, chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc sinh ra thoái hóa biến chất, tham ô, tham nhũng. Những phân tích về nguồn gốc, biểu hiện và những lực cản của chủ nghĩa cá nhân đặc biệt có ý nghĩa khi Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí; chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay.
2.2. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn thực hiện nhất quán nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là người hiểu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong lãnh đạo cách mạng, đặc biệt thấm nhuần quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, tuy nhiên lại luôn thấy được mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với quần chúng, vĩ nhân, lãnh tụ. Một mặt, ông nhấn mạnh cần phải học tập quần chúng nhưng mặt khác, lại phê phán lối làm việc theo đuôi quần chúng. Nhờ gắn bó và học tập quần chúng mà ông tích lũy được kinh nghiệm thực tiễn, rèn giũa được tư duy, củng cố được lý luận.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là một tấm gương tận trung, tận hiếu với nước, với dân, với Đảng. Dù trong hoàn cảnh nào, ông luôn giữ vững bản chất cách mạng, với bất cứ nhiệm vụ gì, ông đều tận tâm, tận lực vì Đảng, vì dân. Có thể nói, ở đâu, lúc nào ông cũng bám sát dân, phân tích thực tiễn để tìm ra cách làm phù hợp. Cũng nhờ luôn bám sát thực tiễn, ông đã giải quyết thành công nhiều vấn đề nóng bỏng góp phần quan trọng vào sự chuyển biến có ý nghĩa chiến lược của cách mạng miền Nam. Cuối năm 1960, do yêu cầu của công cuộc hợp tác hóa và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được phân công làm Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương. Từ một vị tướng cầm quân chuyển sang chỉ đạo một ngành kinh tế trọng yếu của đất nước có liên quan trực tiếp đến đời sống và sự no đói của hàng chục triệu người dân, Đại tướng đã “bám đội, lội đồng” cùng người dân tát nước, cấy lúa, khảo sát, tìm hiểu các mô hình sản xuất, lắng nghe ý kiến các nhà khoa học… Nhờ gắn bó với thực tiễn và luôn coi thực tiễn là đích đến của mình, chỉ một thời gian ngắn, Đại tướng đã phát hiện ra những điểm yếu, điểm thiếu của ngành nông nghiệp, đồng thời đề ra nhiều giải pháp cho nông thôn, nông dân giải phóng sức sản xuất. Trong những năm đầu thập niên 60, thế kỷ XX, không mấy người Việt Nam lại không biết phong trào “Phá xiềng ba sào”, “Đuổi kịp mức sống trung nông”, “Gió Đại Phong”, “Làm thủy lợi hai năm”... Nói là phong trào, nhưng thực chất đó là những đột phá mà Đại tướng đã đề ra nhằm tháo gỡ khó khăn cho ngành nông nghiệp. Những đột phá đó đã trở thành một sự kiện trong đời sống chính trị của nhân dân miền Bắc, đem lại những thành tựu to lớn cho ngành nông nghiệp Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước[3].
Giữa năm 1964, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam bước vào thời điểm bước ngoặt, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được điều vào Nam giữ chức Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Sau một thời gian ngắn, với nhiều kinh nghiệm, tầm nhìn chiến lược, ông đã sớm phát hiện ra điểm mạnh, điểm yếu của đế quốc Mỹ và đề xuất với Đảng những chủ trương chiến lược, sách lược đúng đắn. Trong các cuộc họp với Trung ương cục cũng như ở các địa phương, đơn vị, để giải đáp băn khoăn của không ít người là: “Liệu ta có đánh thắng được Mỹ và đánh bằng cách nào?”, Ông đã khẳng định: Điều trước hết là có dám đánh Mỹ không, nếu dám đánh Mỹ thì hãy đánh Mỹ đi, cứ đánh khắc sẽ tìm ra cách đánh. Quan điểm thực tiễn này không những là sợi chỉ đỏ, là cơ sở khoa học của tư tưởng cách mạng tiến công, mà còn là phương châm mở đường cho quân, dân ta đánh Mỹ và thắng Mỹ[4]. Về quân đội Mỹ, trên cơ sở phân tích những điểm mạnh, điểm yếu và cả những mâu thuẫn chiến lược của chúng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã rút ra những kết luận rất quan trọng, đó là, quân đội Mỹ vào miền Nam là ở trong thế hoàn toàn bị động về chiến lược, Mỹ đông nhưng không mạnh và điểm yếu chí mạng của chúng là tinh thần kém, tuy được trang bị vũ khí mạnh, có nhiều phương tiện… nhưng sẽ khó phát huy ở địa hình chiến trường miền Nam[5]. Từ những phân tích, đánh giá chính xác tình hình thực tiễn cách mạng miền Nam, ông đã rút ra kết luận: Mỹ giàu nhưng không mạnh và dân tộc ta có đủ sức lực, trí tuệ để đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược. Với khẳng định này, chứng tỏ ông có tư duy khoa học độc lập, sáng tạo, khắc phục tư tưởng ngại Mỹ, sợ Mỹ, kịp thời động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong cuộc đụng đầu lịch sử với kẻ thù[6]. Đặc biệt, ông đã có những khái quát lý luận hết sức sâu sắc từ thực tiễn đánh Mỹ, những quan điểm của ông là cơ sở để Đảng ta đưa ra đường lối chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn đưa phong trào cách mạng miền Nam phát triển từ thấp đến cao và đi đến thắng lợi cuối cùng.
Hiện nay, học tập đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chúng ta học tập một mẫu mực về năng lực tư duy sắc sảo, đặc biệt học được tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Trong quá trình đổi mới những năm qua đã chứng minh rằng, thực tiễn đổi mới luôn là mạch nguồn dự báo xu hướng vận động của đổi mới, trở thành cơ sở khoa học cho sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, soi đường dẫn lối cho hoạt động của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Bởi vậy, Đảng ta đã khẳng định: “Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt được những sai lầm và bước đi mò mẫm, quanh co, phức tạp”[7]; đồng thời chỉ ra định hướng “Bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại; phản ánh được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội, tạo động lực mạnh để đưa đất nước đi lên”[8]. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, cứ khi nào Đảng ta biết bám sát thực tiễn để đề ra đường lối, chủ trương thì cách mạng phát triển, ngược lại, nếu không xuất phát từ thực tiễn thì đường lối đó sẽ đi vào khó khăn, bế tắc, thậm chí khủng hoảng.
2.3. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn quán triệt và vận dụng đúng đắn nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn vận dụng sáng tạo các nguyên tắc của triết học Mác – Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù ông có nhiệm vụ làm công tác đảng, công tác chính trị toàn quân, nhưng ông luôn tìm tòi, nghiên cứu và có nhiều chỉ dẫn cho cán bộ, chiến sĩ về chiến thuật, cách đánh, lựa chọn mục tiêu hết sức độc đáo, sáng tạo như: “khi có tàu bay, quân nhảy dù tiến công vào trận địa của mình, phải chú trọng quân địch dưới đất. Vì chỉ tàu bay trên trời, không giải quyết được sự thắng lợi”[9]; “Với tàu bay đề ra cho bộ đội biết là đã có bảo đảm. Đội dự bị ở đằng sau trận địa phải bắn lại phi cơ. Ở phía trước bộ đội phải tiến sát địch để tránh bom đạn tàu bay địch…”[10], v.v. Đây là tư duy quân sự rất quan trọng, mở đường cho phương pháp tác chiến hợp đồng binh chủng của quân đội nhân dân Việt Nam sau này.
Tháng 3 năm 1965, Mỹ và chư hầu đổ quân vào miền Nam đã chính thức đặt dấu chấm hết cho chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, điều đó chứng tỏ đế quốc Mỹ đã phải chấp nhận thất bại trong chiến lược này và bị động chuyển sang chiến lược chiến tranh mới - “Chiến tranh cục bộ”. Trước tình hình đó, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã nhận định rất đúng rằng “đế quốc Mỹ ồ ạt đưa vào miền Nam gần 20 vạn quân viễn chinh trong năm 1965 có nghĩa là Mỹ phải thú nhận là 50 vạn quân ngụy không còn có thể đương đầu với cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam nước ta, như thế cũng có nghĩa là chiến tranh nhân dân ở miền Nam nước ta đã thắng “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ trong giai đoạn mà chúng lấy quân ngụy làm chỗ dựa chủ yếu”[11]. Trước sự thay đổi của tình hình thực tiễn, các phương án đánh thắng địch được vạch ra trước đây như về tổ chức lực lượng, địa bàn, thành lập các ban ngành, đoàn thể cần có sự thay đổi để phù hợp với tình hình thực tiễn. Từ thực tiễn những trận dám đánh Mỹ và thắng Mỹ ở Núi Thành (Quảng Nam tháng 5 năm 1965), Vạn Tường (Quảng Ngãi tháng 8 năm 1965)… Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã đề xuất những tư tưởng mới: “Bắt Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta”, “nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”, “tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”, v.v. Những tư tưởng đó, được quân và dân ta vận dụng sáng tạo, giành thắng lợi, hình thành những “vành đai diệt Mỹ” trên khắp các chiến trường, thậm chí ở ngay cửa ngõ Sài Gòn và các thành phố lớn, tạo cơ sở để quân và dân miền Nam giành thắng lợi lớn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Đồng Xoài tháng 9 năm 1965, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã xác định nhiệm vụ của cách mạng lúc này gồm 3 nội dung: “Nội dung thứ nhất là quân sự, trong quân sự thì lấy việc tiêu diệt địch làm chính. Nội dung thứ hai là phát động cuộc đấu tranh chính trị khắp ở thôn quê và thành phố, nhất là thành phố. Nội dung thứ ba là tiến hành công tác binh vận làm cho ngụy binh tan rã về tinh thần và tổ chức”[12]. Như vậy, ông đã xác định rõ, cần chuẩn bị một lực lượng chính trị đông về lượng, vững vàng về chất, một lực lượng vũ trang đủ mạnh để có thể tiến công địch ngay tại sào huyệt của chúng, đồng thời đẩy mạnh công tác binh vận, đây cũng chính là 3 mũi giáp công trên chiến trường Sài Gòn - Gia Định, trung tâm đầu não, hang ổ của Mỹ - ngụy. Tư tưởng về 3 mũi giáp công đã thể hiện tư duy chiến lược quân sự thiên tài, đã trở thành phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam, để lại bài học quý cho cách mạng Việt Nam.
Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được Bộ Chính trị cử vào chiến trường làm Chính ủy Miền. Với kinh nghiệm tích lũy được từ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và xây dựng phong trào cách mạng, từ phân tích tình hình cách mạng miền Nam, nhất là giai đoạn cuối của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), ông đã cho rằng, nếu ta phát triển chiến tranh du kích dù đến đỉnh cao, nhưng chỉ đánh nhỏ thì không thể giành thắng lợi hoàn toàn được, trong khi đó “đối phương rất sợ khi thấy chủ lực ta xuất hiện”[13]. Vì thế, ông xác định phải có “quả đấm chủ lực mạnh” mới có thể đánh những đòn quyết định giành thắng lợi. Ông đã nhấn mạnh “Bây giờ du kích cũng quan trọng, bộ đội địa phương cũng quan trọng. Nhưng quan trọng hơn là phải có chủ lực mạnh đủ sức tiêu diệt từng tiểu đoàn, trung đoàn chủ lực của địch”[14]. Vì vậy, trong khi tiếp tục đẩy mạnh phương châm đấu tranh “hai chân”, “ba mũi”, “ba vùng”, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh quan tâm xây dựng những “quả đấm chủ lực mạnh” của Quân giải phóng miền Nam, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Như vậy, quan điểm xây dựng “quả đấm chủ lực mạnh” trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thể hiện tầm nhìn chiến lược, sự sáng tạo trong tư duy quân sự, góp phần phát triển nghệ thuật tác chiến, kết hợp chặt chẽ phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực. Đây là đóng góp lớn của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Kế thừa quan điểm của đại tướng Nguyễn Chí Thanh, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay phải đối phó với sự chống phá hết sức nguy hiểm bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch cấu kết với bọn phản động và phần tử cơ hội chính trị. Để hoàn thành trọng trách của một lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, quân đội nhân dân phải nắm vững và quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cốt lõi là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải tiếp tục xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao, chủ động xử lý tốt mọi tình huống, kiên quyết không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược; trong đó, phải tập trung xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
3. Kết luận
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - một tấm gương kiên cường, tận tụy với Đảng, với nước, với nhân dân; một nhà lãnh đạo đức độ, tài năng, có uy tín của Đảng và cách mạng Việt Nam, vị chỉ huy xuất sắc của quân đội nhân dân Việt Nam. Những nội dung sáng tạo trong tư duy quân sự của ông thể hiện rõ tư duy biện chứng, khoa học, luôn thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về chiến tranh nhân dân; luôn gắn lý luận với thực tiễn, bám sát thực tiễn để tổng kết lý luận. Những tư tưởng đó, đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nó cần được vận dụng trong thực tiễn xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của quân và dân ta trong tình hình mới.



* Khoa Lý luận chính trị và Xã hội, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
** Khoa Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[1] Nguyễn Chí Thanh (1978), Chống chủ nghĩa cá nhân, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr. 9.
[2] Nguyễn Chí Thanh (1978), Chống chủ nghĩa cá nhân, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr. 11.
[3] Đại tá, TS. Lê Đức Hạnh (2017), Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: Người tiên phong trên các mặt trận cách mạng, Tạp chí Cộng sản điện tử, http://www.tapchicongsan.org.vn
[4] Đại tá, TS. Lê Đức Hạnh (2017), Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: Người tiên phong trên các mặt trận cách mạng, Tạp chí Cộng sản điện tử, http://www.tapchicongsan.org.vn
[5] Nguyễn Chí Thanh (1977), Những bài học chọn lọc về quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, HN, tr. 472.
[6] Hoàng Văn Tuyên (2017), Sự sáng tạo trong tư duy quân sự của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Tạp chí quốc phòng toàn dân điện tử, http://tapchiqptd.vn
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia, HN, tr. 56.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 – 2011), NXB Chính trị quốc gia, HN, tr. 11.
[9] Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1977), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị trong Quân đội, Nxb Quân đội Nhân dân, HN, tr. 17.
[10] Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1977), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị trong Quân đội, Nxb Quân đội Nhân dân, HN, tr. 17.
[11] Nguyễn Chí Thanh (1977), Những bài chọn lọc về quân sự, Nxb Quân đội Nhân dân, tr. 471.
[12] Bài nói chuyện của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Đồng Xoài, Tài liệu lưu trữ ban Khoa học - Công nghệ - Môi trường Quân khu 7, tr. 23
[13] Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (2009), Tổng tập, Nxb Quân đội Nhân dân, HN, tr. 706.
[14] Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (2009), Tổng tập, Nxb Quân đội Nhân dân, HN, tr 704.

Nhận xét