ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH – NGƯỜI VẬN DỤNG LINH HOẠT, SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH – NGƯỜI
VẬN DỤNG LINH HOẠT, SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT
NAM
1. Mở đầu
Nguyễn Chí Thanh sinh ra và lớn lên trên quê hương Thừa
Thiên Huế, vùng đất kiên cường, giàu truyền thống văn hóa, truyền thống yêu
nước và cách mạng. Ông được nuôi dưỡng, giáo dục và tiếp thu truyền thống lịch
sử hào hùng của quê hương, đất nước, đặc biệt, chứng kiến nhân dân bị áp bức,
bóc lột dã man bởi thực dân, đế quốc, phong kiến, ông đã sớm hình thành tư
tưởng yêu nước và tinh thần cách mạng. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là học
trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cộng sản kiên trung, nhà
lãnh đạo, vị tướng tài ba, mưu lược của dân tộc Việt Nam. Khi mới 14
tuổi, ông đã tham gia những hoạt động chống thực dân, phong kiến, rồi sau đó
sớm đứng trong hàng ngũ những người cộng sản. Trong hơn 30 năm hoạt động cách
mạng, đã trải qua bao khó khăn, thử thách, bị bắt giam và tra tấn nhục
hình, nhưng với ý chí, bản lĩnh của người chiến sỹ cộng sản, một
lòng kiên trung với Đảng, với nước, với lý tưởng cộng sản, là một cán bộ dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và luôn tiên phong trên tất cả các
mặt trận.
2. Nội dung
2.1.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Một nhân cách trong sáng, luôn đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân
Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh là một người liêm khiết, thanh bạch, giản dị, không màng danh lợi, sẵn
sàng tiên phong thực hiện mọi nhiệm vụ mà Đảng và Tổ quốc giao phó. Trong hơn
30 năm hoạt động cách mạng, đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã có mặt ở những nơi
khó khăn, gian khổ nhất; đã hy sinh, phấn đấu trọn đời cho lý tưởng của Đảng; một
lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ông đã tỏ rõ phẩm chất của một
vị tướng tài thao lược của Quân đội nhân dân Việt Nam, một nhà lãnh đạo gương mẫu,
giàu nghị lực và bản lĩnh; một tấm gương sáng ngời của người cộng sản; trung thực,
thẳng thắn, chan hòa với đồng bào, đồng chí, đồng đội.
Đặc biệt, đại tướng Nguyễn
Chí Thanh luôn kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, theo ông “Chủ
nghĩa cá nhân không phải là tư tưởng của một giai cấp nào thuần túy,
mà là sản phẩm của chế độ tư hữu và chủ yếu là của giai cấp bóc
lột. Chủ nghĩa cá nhân có trong tất cả mỗi con người, không gặp dịp
thì nó lắng xuống, có cơ hội thì nó lại lồng lên”[1]. Như vậy, có thể thấy chủ
nghĩa cá nhân có gốc rễ sâu xa từ một nền kinh tế tiểu nông, đặc biệt nông dân
là người tư hữu nhỏ, luôn quan tâm đến lợi ích cá nhân “ăn cỗ đi trước, lội nước
theo sau”; “Đi làng bênh họ, đi họ bênh anh em”... Ông đã phân tích những người
bị chủ nghĩa cá nhân chi phối sẽ có những biểu hiện “Người cá nhân chủ nghĩa
thì ngồi không yên, đứng không yên, như bị kiến đốt. Thấy cấp trên được đề bạt
cũng buồn. Khi chưa được đề bạt thì mong sao được đề bạt, lúc được đề bạt rồi lại
chóng chán, muốn làm sao được “đổi ngôi” mau hơn nữa. Thấy đồng chí có gì hơn
mình cũng không vui, kém người cái gì đêm nằm đã phải giở mình luôn”[2]. Từ năm 1986 đến nay, Việt
Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, tuy nhiên những tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, cục bộ địa phương mà đại tướng
Nguyễn Chí Thanh đã chỉ ra trong đội ngũ cán bộ trước đây vẫn mang tính thời sự
sâu sắc, đặc biệt là những đại án tham nhũng đã và đang bị xét xử, những cán bộ
trẻ từng được kỳ vọng là “hạt giống đỏ” nhưng lại “không đỏ” như vi phạm kỷ luật,
vi phạm pháp luật của Nhà nước. Theo đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nghĩa cá
nhân là một lực cản tiến lên chủ nghĩa xã hội, thậm chí có nơi, có lúc tự giác
hoặc không tự giác, nó phá hoại từng bộ phận của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Trong kháng chiến chống xâm lược, chủ nghĩa cá nhân biểu hiện trước hết
là tư tưởng công thần, kèn cựa, địa vị. Trong hòa bình xây dựng đất nước, chủ
nghĩa cá nhân là nguồn gốc sinh ra thoái hóa biến chất, tham ô, tham nhũng. Những
phân tích về nguồn gốc, biểu hiện và những lực cản của chủ nghĩa cá nhân đặc biệt
có ý nghĩa khi Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham ô,
tham nhũng, lãng phí; chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện
nay.
2.2.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn thực hiện nhất quán nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh là người hiểu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong lãnh đạo
cách mạng, đặc biệt thấm nhuần quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân, tuy nhiên lại luôn thấy được mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với
quần chúng, vĩ nhân, lãnh tụ. Một mặt, ông nhấn mạnh cần phải học tập quần
chúng nhưng mặt khác, lại phê phán lối làm việc theo đuôi quần chúng. Nhờ gắn
bó và học tập quần chúng mà ông tích lũy được kinh nghiệm thực tiễn, rèn giũa
được tư duy, củng cố được lý luận.
Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh là một tấm gương tận trung, tận hiếu với nước, với dân, với Đảng. Dù
trong hoàn cảnh nào, ông luôn giữ vững bản chất cách mạng, với bất cứ nhiệm vụ
gì, ông đều tận tâm, tận lực vì Đảng, vì dân. Có thể nói, ở đâu, lúc nào ông
cũng bám sát dân, phân tích thực tiễn để tìm ra cách làm phù hợp. Cũng nhờ luôn
bám sát thực tiễn, ông đã giải quyết thành công nhiều vấn đề nóng bỏng góp phần
quan trọng vào sự chuyển biến có ý nghĩa chiến lược của cách mạng miền Nam. Cuối
năm 1960, do yêu cầu của công cuộc hợp tác hóa và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp,
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được phân công làm Trưởng ban Nông nghiệp Trung
ương. Từ một vị tướng cầm quân chuyển sang chỉ đạo một ngành kinh tế trọng yếu
của đất nước có liên quan trực tiếp đến đời sống và sự no đói của hàng chục
triệu người dân, Đại tướng đã “bám đội, lội đồng” cùng người dân tát
nước, cấy lúa, khảo sát, tìm hiểu các mô hình sản xuất, lắng nghe ý kiến
các nhà khoa học… Nhờ gắn bó với thực tiễn và luôn coi thực tiễn là đích đến
của mình, chỉ một thời gian ngắn, Đại tướng đã phát hiện ra những
điểm yếu, điểm thiếu của ngành nông nghiệp, đồng thời đề ra nhiều
giải pháp cho nông thôn, nông dân giải phóng sức sản xuất. Trong những
năm đầu thập niên 60, thế kỷ XX, không mấy người Việt Nam lại không
biết phong trào “Phá xiềng ba sào”, “Đuổi kịp mức sống trung nông”, “Gió
Đại Phong”, “Làm thủy lợi hai năm”... Nói là phong trào, nhưng thực
chất đó là những đột phá mà Đại tướng đã đề ra nhằm tháo gỡ khó
khăn cho ngành nông nghiệp. Những đột phá đó đã trở thành một sự kiện
trong đời sống chính trị của nhân dân miền Bắc, đem lại những thành tựu to lớn
cho ngành nông nghiệp Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc xây dựng miền Bắc
trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước[3].
Giữa năm 1964, khi cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam bước vào thời điểm bước ngoặt,
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được điều vào Nam giữ chức Bí thư Trung ương Cục,
Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Sau một thời gian ngắn,
với nhiều kinh nghiệm, tầm nhìn chiến lược, ông đã sớm phát hiện ra
điểm mạnh, điểm yếu của đế quốc Mỹ và đề xuất với Đảng những chủ
trương chiến lược, sách lược đúng đắn. Trong các cuộc họp với Trung ương cục
cũng như ở các địa phương, đơn vị, để giải đáp băn khoăn của không ít
người là: “Liệu ta có đánh thắng được Mỹ và đánh bằng cách nào?”, Ông
đã khẳng định: Điều trước hết là có dám đánh Mỹ không, nếu dám
đánh Mỹ thì hãy đánh Mỹ đi, cứ đánh khắc sẽ tìm ra cách đánh. Quan
điểm thực tiễn này không những là sợi chỉ đỏ, là cơ sở khoa học của
tư tưởng cách mạng tiến công, mà còn là phương châm mở đường cho quân,
dân ta đánh Mỹ và thắng Mỹ[4]. Về quân đội Mỹ, trên cơ sở
phân tích những điểm mạnh, điểm yếu và cả những mâu thuẫn chiến lược của chúng,
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã rút ra những kết luận rất quan trọng, đó là, quân
đội Mỹ vào miền Nam là ở trong thế hoàn toàn bị động về chiến lược, Mỹ đông
nhưng không mạnh và điểm yếu chí mạng của chúng là tinh thần kém, tuy được
trang bị vũ khí mạnh, có nhiều phương tiện… nhưng sẽ khó phát huy ở địa hình
chiến trường miền Nam[5]. Từ những phân tích, đánh
giá chính xác tình hình thực tiễn cách mạng miền Nam, ông đã rút ra kết luận: Mỹ
giàu nhưng không mạnh và dân tộc ta có đủ sức lực, trí tuệ để đánh bại đế quốc
Mỹ xâm lược. Với khẳng định này, chứng tỏ ông có tư duy khoa học độc lập, sáng
tạo, khắc phục tư tưởng ngại Mỹ, sợ Mỹ, kịp thời động viên, khích lệ tinh thần
chiến đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong cuộc đụng đầu lịch sử với
kẻ thù[6]. Đặc biệt, ông đã có những
khái quát lý luận hết sức sâu sắc từ thực tiễn đánh Mỹ, những quan điểm của ông
là cơ sở để Đảng ta đưa ra đường lối chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn
đưa phong trào cách mạng miền Nam phát triển từ thấp đến cao và đi đến thắng lợi
cuối cùng.
Hiện nay, học tập đại tướng
Nguyễn Chí Thanh, chúng ta học tập một mẫu mực về năng lực tư duy sắc sảo, đặc
biệt học được tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Trong quá
trình đổi mới những năm qua đã chứng minh rằng, thực tiễn đổi mới luôn là mạch
nguồn dự báo xu hướng vận động của đổi mới, trở thành cơ sở khoa học cho sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, soi đường dẫn lối cho hoạt động của
cán bộ, đảng viên, nhân dân. Bởi vậy, Đảng ta đã khẳng định: “Chỉ có tăng cường
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt
động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt được những sai lầm và bước đi mò mẫm,
quanh co, phức tạp”[7];
đồng thời chỉ ra định hướng “Bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại; phản
ánh được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội, tạo động
lực mạnh để đưa đất nước đi lên”[8]. Thực tiễn lịch sử đã chứng
minh, cứ khi nào Đảng ta biết bám sát thực tiễn để đề ra đường lối, chủ trương
thì cách mạng phát triển, ngược lại, nếu không xuất phát từ thực tiễn thì đường
lối đó sẽ đi vào khó khăn, bế tắc, thậm chí khủng hoảng.
2.3. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn
quán triệt và vận dụng đúng đắn nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử - cụ
thể trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã chứng minh rằng, đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn vận dụng sáng tạo các
nguyên tắc của triết học Mác – Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù ông có nhiệm vụ làm công tác đảng, công
tác chính trị toàn quân, nhưng ông luôn tìm tòi, nghiên cứu và có nhiều chỉ dẫn
cho cán bộ, chiến sĩ về chiến thuật, cách đánh, lựa chọn mục tiêu hết sức độc
đáo, sáng tạo như: “khi có tàu bay, quân nhảy dù tiến công vào trận địa của
mình, phải chú trọng quân địch dưới đất. Vì chỉ tàu bay trên trời, không giải
quyết được sự thắng lợi”[9]; “Với tàu bay đề ra cho bộ
đội biết là đã có bảo đảm. Đội dự bị ở đằng sau trận địa phải bắn lại phi cơ. Ở
phía trước bộ đội phải tiến sát địch để tránh bom đạn tàu bay địch…”[10], v.v. Đây là tư duy quân
sự rất quan trọng, mở đường cho phương pháp tác chiến hợp đồng binh chủng của
quân đội nhân dân Việt Nam sau này.
Tháng 3 năm 1965, Mỹ và
chư hầu đổ quân vào miền Nam đã chính thức đặt dấu chấm hết cho chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt”, điều đó chứng tỏ đế quốc Mỹ đã phải chấp nhận thất bại trong
chiến lược này và bị động chuyển sang chiến lược chiến tranh mới - “Chiến tranh
cục bộ”. Trước tình hình đó, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã nhận định rất đúng rằng
“đế quốc Mỹ ồ ạt đưa vào miền Nam gần 20 vạn quân viễn chinh trong năm 1965 có
nghĩa là Mỹ phải thú nhận là 50 vạn quân ngụy không còn có thể đương đầu với cuộc
chiến tranh nhân dân ở miền Nam nước ta, như thế cũng có nghĩa là chiến tranh
nhân dân ở miền Nam nước ta đã thắng “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ trong giai
đoạn mà chúng lấy quân ngụy làm chỗ dựa chủ yếu”[11]. Trước sự thay đổi của
tình hình thực tiễn, các phương án đánh thắng địch được vạch ra trước đây như về
tổ chức lực lượng, địa bàn, thành lập các ban ngành, đoàn thể cần có sự thay đổi
để phù hợp với tình hình thực tiễn. Từ thực tiễn những trận dám đánh Mỹ và thắng
Mỹ ở Núi Thành (Quảng Nam tháng 5 năm 1965), Vạn Tường (Quảng Ngãi tháng 8 năm
1965)… Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã đề xuất những tư tưởng mới: “Bắt Mỹ phải
đánh theo cách đánh của ta”, “nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”, “tìm Mỹ mà đánh, tìm
ngụy mà diệt”, v.v. Những tư tưởng đó, được quân và dân ta vận dụng sáng tạo,
giành thắng lợi, hình thành những “vành đai diệt Mỹ” trên khắp các chiến trường,
thậm chí ở ngay cửa ngõ Sài Gòn và các thành phố lớn, tạo cơ sở để quân và dân
miền Nam giành thắng lợi lớn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong bài nói chuyện tại
Hội nghị tổng kết chiến dịch Đồng Xoài tháng 9 năm 1965, Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh đã xác định nhiệm vụ của cách mạng lúc này gồm 3 nội dung: “Nội dung thứ
nhất là quân sự, trong quân sự thì lấy việc tiêu diệt địch làm chính. Nội dung
thứ hai là phát động cuộc đấu tranh chính trị khắp ở thôn quê và thành phố, nhất
là thành phố. Nội dung thứ ba là tiến hành công tác binh vận làm cho ngụy binh
tan rã về tinh thần và tổ chức”[12]. Như vậy, ông đã xác định
rõ, cần chuẩn bị một lực lượng chính trị đông về lượng, vững vàng về chất, một
lực lượng vũ trang đủ mạnh để có thể tiến công địch ngay tại sào huyệt của
chúng, đồng thời đẩy mạnh công tác binh vận, đây cũng chính là 3 mũi giáp công
trên chiến trường Sài Gòn - Gia Định, trung tâm đầu não, hang ổ của Mỹ - ngụy.
Tư tưởng về 3 mũi giáp công đã thể hiện tư duy chiến lược quân sự thiên tài, đã
trở thành phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam, để lại bài học quý cho
cách mạng Việt Nam.
Trước yêu cầu của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được Bộ Chính trị cử
vào chiến trường làm Chính ủy Miền. Với kinh nghiệm tích lũy được từ trong cuộc
kháng chiến chống Pháp và xây dựng phong trào cách mạng, từ phân tích tình hình
cách mạng miền Nam, nhất là giai đoạn cuối của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
(1961 - 1965), ông đã cho rằng, nếu ta phát triển chiến tranh du kích dù đến đỉnh
cao, nhưng chỉ đánh nhỏ thì không thể giành thắng lợi hoàn toàn được, trong khi
đó “đối phương rất sợ khi thấy chủ lực ta xuất hiện”[13]. Vì thế, ông xác định phải
có “quả đấm chủ lực mạnh” mới có thể đánh những đòn quyết định giành thắng lợi.
Ông đã nhấn mạnh “Bây giờ du kích cũng quan trọng, bộ đội địa phương cũng quan
trọng. Nhưng quan trọng hơn là phải có chủ lực mạnh đủ sức tiêu diệt từng tiểu
đoàn, trung đoàn chủ lực của địch”[14]. Vì vậy, trong khi tiếp tục
đẩy mạnh phương châm đấu tranh “hai chân”, “ba mũi”, “ba vùng”, Đại tướng Nguyễn
Chí Thanh quan tâm xây dựng những “quả đấm chủ lực mạnh” của Quân giải phóng miền
Nam, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Như vậy, quan điểm xây dựng
“quả đấm chủ lực mạnh” trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thể hiện tầm nhìn chiến lược, sự sáng tạo trong
tư duy quân sự, góp phần phát triển nghệ thuật tác chiến, kết hợp chặt chẽ
phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các
binh đoàn chủ lực. Đây là đóng góp lớn của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào nghệ
thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Kế thừa quan điểm của đại tướng
Nguyễn Chí Thanh, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay phải đối phó với sự chống
phá hết sức nguy hiểm bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch cấu kết với bọn phản động và phần tử cơ hội chính trị. Để hoàn thành trọng
trách của một lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, quân
đội nhân dân phải nắm vững và quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm, phương
châm chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cốt lõi là bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải tiếp tục xây dựng quân
đội nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng
sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao, chủ động xử lý tốt mọi tình huống, kiên quyết
không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược; trong đó, phải tập trung xây
dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
3.
Kết luận
Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh - một tấm gương kiên cường, tận tụy với Đảng, với nước, với nhân dân; một
nhà lãnh đạo đức độ, tài năng, có uy tín của Đảng và cách mạng Việt Nam, vị chỉ
huy xuất sắc của quân đội nhân dân Việt Nam. Những nội dung sáng tạo trong tư duy
quân sự của ông thể hiện rõ tư duy biện chứng, khoa học, luôn thấm nhuần và vận
dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng về chiến tranh nhân dân; luôn gắn lý luận với thực tiễn,
bám sát thực tiễn để tổng kết lý luận. Những tư tưởng đó, đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, nó cần được vận dụng trong thực tiễn xây dựng, huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu của quân và dân ta trong tình hình mới.
*
Khoa Lý luận chính trị và Xã hội, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
[1] Nguyễn Chí Thanh (1978), Chống
chủ nghĩa cá nhân, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr. 9.
[2] Nguyễn Chí Thanh (1978), Chống
chủ nghĩa cá nhân, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr. 11.
[3] Đại tá, TS. Lê Đức Hạnh
(2017), Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: Người tiên phong trên các mặt trận
cách mạng, Tạp chí Cộng sản điện tử, http://www.tapchicongsan.org.vn
[4] Đại
tá, TS. Lê Đức Hạnh (2017), Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: Người tiên
phong trên các mặt trận cách mạng, Tạp chí Cộng sản điện tử, http://www.tapchicongsan.org.vn
[5] Nguyễn Chí
Thanh (1977), Những bài học chọn lọc về quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, HN, tr.
472.
[6] Hoàng Văn
Tuyên (2017), Sự sáng tạo trong tư duy quân sự của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Tạp
chí quốc phòng toàn dân điện tử, http://tapchiqptd.vn
[7] Đảng Cộng sản
Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị
quốc gia, HN, tr. 56.
[8] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 – 2011), NXB Chính trị quốc
gia, HN, tr. 11.
[9] Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1977),
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị trong Quân đội, Nxb Quân
đội Nhân dân, HN, tr. 17.
[10] Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1977),
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị trong Quân đội, Nxb Quân
đội Nhân dân, HN, tr. 17.
[11] Nguyễn Chí Thanh (1977), Những bài
chọn lọc về quân sự, Nxb Quân đội Nhân dân, tr. 471.
[12] Bài nói chuyện của Đại tướng Nguyễn
Chí Thanh tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Đồng Xoài, Tài liệu lưu trữ ban Khoa
học - Công nghệ - Môi trường Quân khu 7, tr. 23
[13] Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (2009),
Tổng tập, Nxb Quân đội Nhân dân, HN, tr. 706.
Nhận xét
Đăng nhận xét