VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT ĐỐI VỚI VIỆC HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
VAI
TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
ĐỐI
VỚI VIỆC HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
TS. LÊ VĂN HÙNG
Học viện
Nông nghiệp Việt Nam
ThS. NGUYỄN
THỊ VÂN CHI
Trường Cao
đẳng Sư phạm Cao Bằng
Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 90 (152), tháng 10 năm 2018, tr. 100 - 104
Tóm tắt
Giáo
dục phép biện chứng duy vật trong các trường đại học và cao đẳng hiện nay đóng
vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa
học cho sinh viên. Bởi vì phép biện chứng duy vật nghiên cứu các quy luật phổ
biến chi phối sự vận động và phát triển của cả tự nhiên, xã hội và tư duy, nó
cung cấp cho sinh viên một cách nhìn khoa học về thế giới và khẳng định rằng
con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới. Từ đó, sinh
viên có quan điểm khoa học về thực tiễn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phân
tích và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn một cách biện chứng.
Bài viết tập trung vào hai vấn đề: một số nội dung cơ bản của phép biện chứng
duy vật; Một số ý nghĩa về phương pháp luận của phép biện chứng luận đối với việc
học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.
Từ khóa: Chủ nghĩa duy vật biện chứng; Phép biện
chứng duy vật; Sinh viên và phép biện chứng duy vật; Triết học Mác –
Lênin.
1.
Mở đầu
Phép biện chứng duy vật
(PBCDV) là một bộ phận quan trọng cấu thành của triết học Mác-Lênin, là khoa học
về những mối liên hệ phổ biến và quy luật chung nhất chi phối sự vận động và
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. SV là một bộ phận của thanh niên, là
những người có tri thức, tiên phong trong các hoạt động chính trị - xã hội. Một
mặt, SV là những thanh niên đang dần hoàn thiện nhân cách, những chủ nhân tương
lai của đất nước. Mặt khác, họ là lực lượng chủ yếu để bổ sung vào đội ngũ trí
thức trong tương lai. Do tính chất đặc thù của SV như vậy, việc trang bị cho các
em tri thức khoa học, giúp SV có suy nghĩ, hành động đúng có ý nghĩa rất quan
trọng, đặc biệt, SV còn đóng vai trò là người phổ biến khoa học và công nghệ, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân. Để làm
tròn được sứ mạng đó, SV cần phải nghiên cứu các nguyên lý, quy luật, phạm trù
của triết học, đặc biệt cần phải được trang bị PBCDV để hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học, từ đó định hướng cho các em trong nhận thức và
hành động.
2. Một số nội dung cơ bản của PBCDV
PBCDV với tư cách là một
hệ thống bao gồm các yếu tố là những hình thức logic để tạo thành hệ thống.
Theo V.I.Lênin, các yếu tố của phép biện chứng là tất cả những gì tham gia vào
phép biện chứng, trong đó ông cho rằng, yếu tố có thể là nguyên lý, quy luật,
phạm trù. Trong Bút ký triết học, V.I.Lênin đã nêu lên 16 yếu tố của phép biện
chứng, sau đó bổ sung thêm và không đặt vấn đề về số lượng các yếu tố của phép
biện chứng [1, tr. 38]. Như vậy, số lượng và bản chất của các yếu tố của PBCDV
luôn thay đổi và phản ánh thế giới ngày càng chính xác, đầy đủ và cụ thể hơn
cùng với trình độ phát triển của tri thức triết học, khoa học và thực tiễn. Chiếm
một vị trí quan trọng trong PBCDV là nguyên lý - những quan điểm cơ sở, nền tảng,
làm tiền đề cho các quy luật và các cặp phạm trù. Nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến của các sự vật, hiện tượng khẳng định mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới
không tồn tại một cách cô lập, tách rời, trái lại giữa chúng luôn có mối liên hệ,
có sự ràng buộc, tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau. Mối liên hệ giữa các
sự vật, hiện tượng không phải là sự gán ghép chủ quan nào đó của con người, mà
là những mối liên hệ khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng, bắt nguồn từ
tính thống nhất vật chất của thế giới. Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
không những có tính khách quan mà còn mang tính phổ biến và tính đa dạng, phong
phú, nghĩa là mối liên hệ tồn tại ở khắp mọi lúc, mọi nơi, mọi sự vật, đồng thời,
mối liên hệ cũng muôn hình, muôn vẻ, chúng khác nhau không chỉ ở vị trí, đặc điểm,
bản chất, mà còn ở chức năng… Chính vì mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong
mối liên hệ phổ biến, cho nên cần quán triệt nguyên tắc toàn diện, lịch sử - cụ
thể, nó chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, nó đối lập với
cách đánh giá, xem xét siêu hình, phiến diện, chiết trung, ngụy biện.
Nguyên lý về sự phát triển
cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn luôn vận động, biến đổi
không ngừng, trong quá trình đó, phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật,
hiện tượng. Vì vậy, cần phải quán triệt nguyên tắc phát triển, nguyên tắc này
đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận
động, biến đổi và phát triển của nó, phải dự báo được xu hướng phát triển của sự
vật, hiện tượng trong tương lai, nhận thức đúng cái mới và ủng hộ cái mới, đồng
thời tư duy phải mềm dẻo, linh hoạt, năng động, tránh rơi vào bảo thủ, trì trệ,
định kiến, đối lập với sự phát triển.
PBCDV còn bao gồm các quy
luật cơ bản. Trong đó, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là
hạt nhân của phép biện chứng. V.I. Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép
biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm
được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải
thích và sự phát triển thêm” [3, tr. 240]. Thông qua việc phản ánh quá trình đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn ở bên trong sự vật, hiện tượng, quy luật thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Do đó, đòi hỏi SV phải nắm vững nguyên tắc mâu thuẫn trong nhận thức và thực tiễn.
Yêu cầu cơ bản của nguyên tắc này là phải phát hiện được mâu thuẫn, nhận thức
đúng đắn mâu thuẫn, tìm ra phương thức, lực lượng để giải quyết mâu thuẫn một
cách khoa học, đúng đắn, linh hoạt và sáng tạo, gắn liền với những mâu thuẫn cụ
thể trong một tình hình cụ thể.
Quy luật chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba
quy luật cơ bản của PBCDV. Thông qua việc phản ánh quá trình thay đổi dần dần về
lượng khi vượt qua độ và đạt tới điểm nút thì tạo ra bước nhảy làm thay đổi cơ
bản về chất, quy luật này đã vạch ra cách thức của sự phát triển. Nó có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng, tránh thái độ bảo thủ trì trệ hoặc chủ quan, nóng
vội, đốt cháy giai đoạn, đồng thời trong nhận thức cũng như trong thực tiễn cần
vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy để đẩy nhanh quá trình phát triển.
Quy luật phủ định của phủ
định khái quát khuynh hướng phát triển đi lên theo đường xoáy ốc, phản ánh tính
kế thừa, tính chu kỳ và tính tiến lên của quá trình phát triển. Đây là cơ sở
phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi hoạt động nhận
thức và thực tiễn. Nguyên tắc phủ định biện chứng đòi hỏi chúng ta trong nhận
thức và thực tiễn để bảo đảm sự phát triển cần phải biết kế thừa một cách có
phê phán, có chọn lọc, tránh thái độ tả khuynh - phủ định sạch trơn cũng như hữu
khuynh - kế thừa tất cả.
PBCDV còn bao gồm các cặp
phạm trù hay còn gọi là các quy luật không cơ bản. Cũng như các quy luật cơ bản,
các cặp phạm trù là sự cụ thể hóa của hai nguyên lý. Nếu như hai nguyên lý của PBCDV
phản ánh một cách bao quát tính chất biện chứng chung nhất của thế giới thì các
cặp phạm trù phản ánh tính toàn vẹn, tính chỉnh thể thống nhất của các sự vật,
hiện tượng của thế giới, còn mối liên hệ nội tại của chúng biểu hiện tính toàn
vẹn và tính quy luật của quá trình thống nhất của thế giới. Các phạm trù riêng
lẻ có thể phản ánh những mặt nào đó của quá trình, nhưng chỉ trong một tổng thể
chúng mới phản ánh đầy đủ và sâu sắc tính thống nhất của thế giới.
Như vậy, các yếu tố trong
thành phần của phép biện chứng không tồn tại một cách cô lập, mà giữa chúng có
mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất, nhờ
đó PBCDV thực hiện vai trò phương pháp luận phổ biến trong nhận thức và thực tiễn.
PBCDV là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật
khoa học, có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp luận biện chứng duy vật, do đó, nó không chỉ dừng lại ở việc giải
thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhận thức và vận dụng PBCDV vào
thực tiễn một cách sáng tạo. Trước hết, Người đã phê phán và đấu tranh không
khoan nhượng với bệnh máy móc, giáo điều, nó đã ảnh hưởng đến cách nghĩ, cách
làm của một bộ phận cán bộ, đảng viên: “Từ trước tới nay, Đảng ta đã cố gắng
liên hệ chặt chẽ chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tế cách mạng Việt Nam. Cán bộ và
đảng viên ta nói chung đều có phẩm chất cách mạng tốt đẹp. Nhưng chúng ta còn
nhiều khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh
nghiệm, tác phong quan liêu, chủ nghĩa cá nhân… Những khuyết điểm ấy ngăn trở sự
tiến bộ của các đồng chí chúng ta. Chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin…
Chúng ta phải ra sức học tập có sáng tạo kinh nghiệm của các đảng anh em” [5,
tr. 201]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên lưu ý khi học tập
và vận dụng chủ nghĩa Mác không được giáo điều, không được coi lý luận của chủ
nghĩa Mác như một thứ lý luận giáo điều chết cứng. Điều này thật đúng với tinh
thần của Mác khi đã cảnh báo những người đời sau rằng, học thuyết của các ông
là học thuyết “mở” chứ không giống như một tín điều tôn giáo đã hoàn thành.
Quán triệt tinh thần này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mác đã xây dựng
học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào?
Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” [4, tr.
465]. Người coi chủ nghĩa Mác là một hệ thống mở và luôn đòi hỏi cán bộ, đảng
viên phải thấy rõ điều đó, đồng thời Người lưu ý rằng “Dù sao thì cũng không thể
cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư
liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” đó là thực tiễn lịch sử của các nước
phương Đông, do vậy, Người yêu cầu “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử
của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông” [4, tr. 467].
Như vậy, PBCDV trong quan
niệm của Người vừa là kết quả của sự nghiên cứu một cách thấu đáo các nguyên
lý, quy luật, phạm trù của triết học Mác-Lênin, đồng thời là sự hiểu biết sâu sắc
tình hình lịch sử - cụ thể của Việt Nam, vừa là sự chắt lọc những tinh hoa văn
hóa của dân tộc, vừa tiếp thu văn hóa nhân loại. Những luận điểm và cách làm biện
chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã,
đang và sẽ là kim chỉ nam cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
3. Một số ý nghĩa phương pháp luận của
PBCDV đối với việc học tập và rèn luyện của SV hiện nay
Giáo dục đại học không chỉ cung cấp
kiến thức chuyên môn, mà còn góp phần nâng cao tư duy lý luận cho SV. Môn Triết
học Mác-Lênin được giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay có vị
trí quan trọng nhất trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học cho SV, giúp rèn luyện và nâng cao tư duy lý luận cho các em thông qua việc
cung cấp một hệ thống các vấn đề có tính khái quát cao về thế giới. Có thể khái
quát một số vai trò của triết học Mác-Lênin nói chung, PBCDV nói riêng đối với SV
trong quá trình học tập hiện nay ở một số điểm sau:
3.1. PBCDV giúp SV có cách đánh giá, xem
xét sự vật, hiện tượng một cách biện
chứng, khách quan, khắc phục bệnh siêu hình, chủ
quan duy ý chí và bệnh trông chờ, ỷ lại vào điều kiện, hoàn cảnh. Nắm
vững mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, nắm được nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, SV thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các
yếu tố, các mặt trong một sự vật, hiện tượng, giữa cái khách quan và cái chủ
quan, lượng và chất, các mặt đối lập, cái khẳng định với cái bị phủ định... Đặc
biệt, nếu SV hiểu được nguyên tắc khách quan, khi đánh giá sự vật, hiện tượng
nào đó, luôn phải xuất phát từ thực tế khách quan “sự vật, hiện tượng như thế
nào thì phải đánh giá đúng như thế”, không thể tùy tiện gán cho sự vật, hiện
tượng cái mà nó không có, tức là không được “tô hồng” và không được “bôi đen”
đối tượng khi xét xét, đánh giá. Việc hiểu và vận dụng nguyên tắc này sẽ giúp SV
không rơi vào chủ quan duy ý chí, ảo tưởng vào sức mạnh, chỉ cần có tình cảm và
ý chí có thể làm được tất cả mọi thứ mà lãng quên đi điều kiện vật chất, điều
kiện khách quan quy định, tác động. Thực tế, trong quá trình học tập, trong đời
sống hàng ngày, một bộ phận SV thường rơi vào vào bệnh chủ quan duy chí, có hiện
tượng này vì do còn trẻ, kinh nghiệm sống chưa nhiều, lại sốc nổi nên đứng
trước một vấn đề, một tình huống phát sinh, một bộ phận SV tỏ ra nóng vội,
không phân tích thấu đáo dẫn đến có suy nghĩ và hành động sai lầm.
Hiện nay, do nhiều trường đại học thực
hiện đào tạo theo hệ thống tín chỉ, có một bộ phận SV muốn tốt nghiệp sớm để có
việc làm nên thường đăng ký nhiều tín chỉ trong khi năng lực, trình độ nhận
thức của họ còn hạn chế dẫn đến hậu quả là thi lại, học lại, vừa lãng phí tiền
của, công sức, vừa dẫn đến bi quan, chán nản… Một số SV khác lại ỷ lại vào điều
kiện của gia đình, chờ đợi cha mẹ xin việc sau khi tốt nghiệp nên không chủ
động phát triển kiến thức, kỹ năng trong quá trình học tập… Đặc biệt, tiếp thu
nền giáo dục phương Tây, nhiều trường đại học, cao đẳng hiện nay thực hiện phương
pháp lấy người học làm trung tâm, giảng viên (GV) chỉ còn đóng vai trò định
hướng, gợi mở. Với phương pháp này, thời gian tự học, tự nghiên cứu của SV lớn.
Tuy nhiên, thực tế có một bộ phận không nhỏ SV còn chưa chủ động trong việc
chiếm lĩnh tri thức khoa học, họ vẫn rất thụ động, ỷ lại trong học tập, trông
chờ vào việc cung cấp kiến thức của GV, họ vẫn thực hiện theo thói quen lên
giảng đường, GV giảng được từ nào, họ ghi luôn từ đó, khi thi thì học thuộc,
trả bài coi như hoàn thành nhiệm vụ. Với phương pháp học tập thụ động, ỷ lại vào
thầy cô như vậy, do đó, số lượng SV thất nghiệp ngày càng tăng trong những năm
qua là một điều tất yếu và khái niệm “đào tạo lại” có lẽ cũng không còn quá xa
lạ với nhiều người hiện nay.
3.2. PBCDV giúp SV xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng một cách toàn diện, khắc phục
cách xem xét phiến diện, chiết trung, ngụy biện. PBCDV khẳng định,
mọi sự vật và hiện tượng đa dạng, phong phú trong thế giới khách quan luôn có
mối liên hệ biện chứng, có ảnh hưởng, tác động qua lại và nằm trong một chỉnh
thể thống nhất, nhận thức chỉ đạt đến chân lý khi nó phản ánh đúng đắn bản chất
của thế giới khách quan. Thực tế cho thấy, nếu mỗi SV nắm được tinh thần của
nguyên tắc toàn diện thì ngay từ khi đang ngồi trên giảng đường đại học, họ
phải xác định được những mối liên hệ, những hoạt động nào cần phải chú ý, trọng
tâm để phát triển toàn diện, chẳng hạn SV có nhiều hoạt động phải thực hiện
trong môi trường đại học như học tập, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí,
lao động…, tuy nhiên, hoạt động cơ bản, chủ yếu mà SV phải tập trung thực hiện
đó là học tập (tri thức, phương pháp, kỹ năng), không chỉ tri thức chuyên môn
mà còn phải quan tâm đến kiến thức của các khoa học khác để có kiến thức toàn
diện, tổng hợp. Bởi SV không chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn giỏi về
các kỹ năng mềm như giao tiếp, thuyết trình, làm việc nhóm, tin học, ngoại ngữ…
Thực tế cho thấy, có không ít SV do không hiểu nên đã không vận dụng được
nguyên tắc toàn diện vào học tập nên rơi vào sai lầm như không xác định được
nhiệm vụ trọng tâm trong môi trường đại học, không chú ý đến học tập mà chủ yếu
lại dành thời gian để thỏa mãn nhu cầu bản năng như ăn chơi, yêu đương dẫn tới
những kết cục đau lòng; có SV chỉ quan tâm học những môn chuyên ngành mà lại
không quan tâm, thậm chí coi thường các môn cơ bản, đại cương dẫn đến lệch lạc
về nhận thức, không có kiến thức toàn diện, không có các kỹ năng cần thiết để
phát triển sau này. Những SV có quan điểm như vậy cùng lắm sau này cũng chỉ là công
nhân lành nghề chứ không thể trở thành chuyên gia, nhà quản lý… Ngoài ra, có
một bộ phận SV có kết quả học tập yếu kém không bình tĩnh tìm ra nguyên nhân để
khắc phục mà lại vội vã đổ lỗi cho trình độ, năng lực của GV kém, cơ sở vật
chất của nhà trường lạc hậu, hoặc đổ lỗi cho gia đình nghèo, cung cấp tài chính
ít… những hiện tượng đó thực chất là mắc vào ngụy biện trong đánh giá, xem xét,
họ quên mất cha ông chúng ta mặc dù không được học về PBCDV nhưng cũng rất khách
quan, biện chứng khi cho rằng “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”…
3.3.
PBCDV giúp SV khi đánh giá sự vật, hiện tượng phải đặt chúng theo khuynh hướng đi lên, tức là trong sự vận động,
phát triển không ngừng, vạch ra được xu hướng biến đổi và chuyển hóa của sự vật,
hiện tượng,
khắc phục được lối tư duy bảo thủ, trì trệ, định kiến đối lập với sự phát
triển. Nếu SV
hiểu được nguyên tắc phát triển và vận dụng vào thực tiễn thì họ cần phải chọn ngành
nghề
đào tạo như thế nào cho đúng, muốn đúng họ phải phân tích, dự báo được xu thế
phát triển của kinh tế - xã hội, sự biến đổi về cơ cấu lao động việc làm trong
tương lai, chọn ngành nghề không thể chỉ dựa trên sở thích nhất thời, hoặc theo
phong trào… Nếu SV hiểu biết được nguyên tắc phát triển, khi đã là SV đại học,
họ phải nhận thức được vấn đề việc làm sẽ rất khó khăn sau khi họ ra trường, đặc
biệt khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với thế giới về lao động, việc làm… Nhận
thức được điều đó, họ phải chủ động, tích cực học tập, rèn luyện về mọi mặt để
phát triển toàn diện bản thân không chỉ giỏi kiến thức chuyên môn, thành thạo về
công nghệ thông tin, ngoại ngữ mà còn giỏi kỹ năng mềm… Những SV như vậy ra trường
liệu có thất nghiệp hay không? Câu trả lời chắc ai cũng rõ, có lẽ họ cần phải
cân nhắc, lựa chọn xem nên làm việc ở vị trí nào cho phù hợp mà thôi. Thực tế
cho thấy, trong xã hội hiện nay đang thừa rất nhiều lao động phổ thông, hoặc có
bằng cấp nhưng trình độ, năng lực không đi cùng lại rất thiếu, rất cần những
lao động giỏi về quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ… Nắm được PBCDV, SV sẽ nhận thức
được sự phát triển của sự vật không phải là một con đường thẳng, mà là một con
đường quanh co, phức tạp theo đường xoáy ốc… Điều đó cũng có nghĩa là con đường
đi đến thành công của mỗi cá nhân không phải là một con đường bằng phẳng, trải
đầy hoa hồng. Bởi vì, phát triển đã mang trong mình nó cả sự đau đớn, thất bại
và thực tế đã chứng minh để đi tới thành công, người ta phải chấp nhận thất bại,
thậm chí phải trải qua nhiều lần thất bại mới đến được thành công. Nếu SV nhận
thức được điều này, họ sẽ chủ động, tự tin, quyết tâm hơn trong học tập và cuộc
sống, dám đứng lên mạnh mẽ sau mỗi lần vấp ngã. Đứng trước một vấn đề khó, môn
học khó, tình huống khó, SV phải bình tĩnh, chủ động tìm ra nguyên nhân, vạch
ra giải pháp và nếu họ nhận thức sai, hành động sai đi đến thất bại cũng là tất
yếu, chỉ có điều trong lúc thất bại đó họ phải có tri thức, tình cảm, có ý chí
quyết tâm để vượt qua thất bại hướng tới thành công. Việc đương đầu với thất bại
và chấp nhận thất bại có lẽ rất ít gia đình, nhà trường, môn học đề cập đến, đó
có thể là nguyên nhân dẫn đến một số SV có nhận thức lệch lạc dẫn đến những hành
vi tiêu cực. Trong những năm qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã
đưa tin, có HS, SV mặc dù đã chăm chỉ học tập nhưng kết quả học tập không như
mong muốn bị gia đình lên án, nguyền rủa, trước áp lực đó có em đã phải tìm đến
cái chết, hoặc bị người yêu bội bạc có SV đã nhảy lầu tự tử, hay có SV vì “sốc”
với khối lượng kiến thức đồ sộ ở bậc đại học mà dẫn đến buông xuôi sa vào tệ nạn
xã hội… Điều đó cho thấy, nắm được PBCDV nói chung, nguyên tắc phát triển nói
riêng có ý nghĩa rất lớn đối với SV, giúp SV có nhận thức và hành động đúng…
3.4. Nắm
được PBCDV SV luôn gắn lý luận với thực
tiễn, “học đi đôi với hành”, khắc phục được bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
Thực tế nhiều nhà tuyển dụng lao động hiện nay chia sẻ, nhiều kỹ sư, cử nhân ở
Việt Nam tốt nghiệp có nhược điểm là hạn chế về
định hướng nghề nghiệp, yếu kém về kỹ năng mềm và khả năng giao tiếp. Khi được hỏi
về định nghĩa, khái niệm thì họ thuộc vanh vách nhưng khi hỏi về thực tế lại hết
sức mơ hồ. Chẳng hạn, có cử nhân ngành Quản trị kinh doanh, nhà tuyển dụng yêu
cầu lập thử một bản kế hoạch phát triển sản phẩm nhưng không biết triển khai
như thế nào. Hoặc SV ngành Sư phạm ra trường mà chỉ nắm kiến thức trong sách vở,
khi lấy ví dụ thực tế cũng toàn trong sách vở, rất mơ hồ với tri thức mới, đặc
biệt kỹ năng giảng dạy rất yếu, nhất là tác phong, cử chỉ, điệu bộ thiếu tự
tin, không chủ động, linh hoạt trong sử dụng phương pháp giảng dạy… Thực trạng
này có nhiều nguyên nhân, có lỗi đến từ nhà quản lý, từ nội dung chương trình,
trình độ, năng lực của GV nhưng trước hết, lỗi này còn đến từ SV, trong suốt
quá trình học tập, SV đã không quán triệt đúng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, học không đi đôi với hành…
4.
Kết luận
PBCDV là một bộ phận lý
luận cơ bản hợp thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của triết học
Mác-Lênin, là khoa học về mối liên hệ phổ biến và cũng là khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. SV
là thế hệ tương lai của đất nước, khi được trang bị PBCDV sẽ hình thành ở họ thế
giới quan và phương pháp luận khoa học, giúp các em học tập tốt hơn, hình thành
năng lực tư duy biện chứng trong nhận thức, đánh giá và giải quyết vấn đề; không
chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo được thế giới theo hướng văn minh, tiến bộ.
Đặc biệt, PBCDV sẽ giúp SV nâng cao năng lực lý luận, ý thức chính trị, nhạy
bén với thực tiễn, xử lý tốt các tình huống xảy ra trong thực tiễn, sống có lý
tưởng, ước mơ, hoài bão, có đủ bản lĩnh chính trị để đấu tranh chống lại các
quan điểm thù địch, phản động luôn tìm mọi cách phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa
Mác-Lênin, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
______________
Tài
liệu tham khảo
1. Nguyễn Ngọc Khá, Tính hệ thống
của phép biện chứng duy vật, Tạp chí Triết học, số 1 (284), 2015.
2. Hoàng Thúc Lân, Vai trò của tư duy biện chứng duy vật đối với
sinh viên đại học nước ta, Tạp chí Triết học, số 4 (191), 2007.
3. V. I. Lênin, Toàn tập (tập 4), NXB Tiến Bộ, Matxcơva,
1980.
4. Hồ Chí Minh,Toàn tập (tập 1), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2000.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 10), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2000.
Nhận xét
Đăng nhận xét