XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TS. Lê Văn Hùng
Học
viện Nông nghiệp Việt Nam
Th.S Phạm Thái Huynh
Trường
Đại học Luật Hà Nội
1.
Mở đầu
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn
đề văn hoá và bảo tồn văn hóa dân tộc luôn có vị trí quan trọng. Những quan điểm
về văn hoá của Người luôn là kim chỉ nam để Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ
trương xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam. Thực tiễn lịch sử đã chứng
minh, những quan điểm và hoạt động văn hoá của Hồ Chí Minh không những làm
phong phú thêm kho tàng văn hoá của dân tộc Việt Nam mà còn góp phần vào sự tiến
bộ và phát triển của nền văn hóa nhân loại. Công lao của Hồ Chí Minh đã được
UNESCO ghi nhận: "Sự đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực
văn hoá, giáo dục, nghệ thuật là kết tinh truyền thống hàng ngàn năm của nhân
dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của các dân tộc, tiêu biểu
cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Người là vị anh hùng giải phóng dân tộc
của Việt Nam và là nhà văn hoá kiệt xuất" [14].
Hiện
nay, toàn cầu hóa văn hóa diễn ra sâu sắc tạo điều kiện để các quốc gia dân tộc
mở rộng giao lưu, trao đổi về văn hóa, chính trị, xã hội... Tuy nhiên, bên cạnh
những cơ hội mở ra thì toàn cầu hóa văn hóa cũng chứa đựng những thách thức lớn,
đặc biệt là đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở mỗi quốc
gia. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với mỗi quốc gia dân tộc phải có chính sách phù
hợp để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, để hòa nhập nhưng không
được “hòa tan”, hòa nhập, hội nhập nhưng phải giữ được bản sắc, cốt cách của
dân tộc. Đó là một điều không đơn giản vì thực tế cho thấy, trong những năm qua
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mang lại nhiều thành tựu cho đất
nước cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân không ngừng nâng cao. Tuy nhiên, trước sự du nhập của văn hóa, lối
sống phương Tây, sự “xâm lăng”của văn hóa dưới tác động của toàn cầu hóa văn
hóa đã làm cho không ít giá trị, chuẩn mực văn hóa truyền thống của dân tộc bị
mai một, hình thành nên một bộ phận lớp trẻ không có những hiểu biết tối thiểu
về truyền thống, thậm chí là phê phán, lên án, đi ngược với văn hóa, lối sống
truyền thống, cổ xúy cho mặt trái của văn hóa phương Tây… Thực trạng đó làm cho
nhiều người đặt ra câu hỏi hoài nghi, liệu có nên giữ và giữ được bản sắc văn
hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay hay không? Câu hỏi đó cần
trả lời và phải trả lời, tuy nhiên trọng phạm vi của bài viết, tác giả chỉ gợi
mở một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2.
Giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Khái
niệm bản sắc thường được sử dụng gắn với văn hóa và dân tộc. Có thể hiểu bản
sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng bản chất của một nền văn hoá được
xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều
sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái
trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính tương
đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi. Trong quá trình tồn tại và phát triển, bản sắc
văn hoá là yếu tố tạo nên sức mạnh tinh thần dân tộc, giúp dân tộc vượt qua những
thử thách của lịch sử. Do đó, có thể hiểu “bản sắc dân tộc là tổng thể những
phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng
tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp
cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so
với bản thân mình trong quá trình phát triển” [1, tr. 77 – 78]. Trong điều kiện
toàn cầu hóa văn hóa đang diễn ra nhanh, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc đã và đang được nhiều quốc gia dân tộc coi trọng. Nếu một dân tộc
đánh mất bản sắc văn hoá thì thực chất dân tộc ấy đã đánh mất đi “hồn cốt” của chính
mình. Do vậy, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá tạo nên bản sắc văn
hoá của dân tộc có ý nghĩa to lớn đối với sự tồn vong và phát triển của mỗi dân
tộc. Thực tế sự phát triển của lịch sử đã chứng minh, mỗi chế độ xã hội có một
nền văn hoá đặc trưng. Sự thay đổi của các chế độ xã hội trong lịch sử tất yếu
dẫn đến sự biến đổi của nền văn hoá. Tuy nhiên, đây không phải là sự đứt đoạn
trong quá trình phát triển của văn hoá và cũng không phải là nền văn hoá mới
đang được hình thành sẽ từ bỏ mọi di sản, truyền thống của nền văn hoá cũ.
Trong quá trình biến đổi, nền văn hoá mới luôn kế thừa những “hạt nhân hợp lý”
của nền văn hoá trước đó; đồng thời, bổ sung những yếu tố mới phù hợp với những
quan hệ và đặc điểm của chế độ xã hội mới.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống loài người
mới sáng tạo, phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, tôn giáo cùng những
công cụ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Do đó, “Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn” [6, tr.
431]. Văn hóa luôn gắn liền với quốc gia, dân tộc, do đó, bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam được đúc kết trong nhiều giá trị, chuẩn mực truyền thống, trong đó
nổi bật là truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng; tinh
thần nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo
trong lao động sản xuất; tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất, mưu trí, gan
dạ trong chống giặc ngoại xâm... Những truyền thống ấy không những phải được
giữ gìn mà còn phải được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt
Nam hiện nay.
Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhận thấy tầm quan trọng của bản sắc văn
hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng công tác giáo dục truyền thống lịch
sử dân tộc. Người căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà
Việt Nam” [5, tr. 221]. Đồng thời, Người yêu cầu phải phát huy hết cốt cách dân
tộc để cổ vũ đồng bào, để giáo dục con cháu. Người phê phán những biểu hiện tôn
sùng văn hoá ngoại lai, theo Người, càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin bao
nhiêu càng phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông bấy
nhiêu. Người đòi hỏi phải giữ gìn và phát huy những vốn văn hoá quý báu của dân
tộc, loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống tinh thần của nhân dân, vừa
kế thừa những truyền thống tốt đẹp, vừa phê phán, loại bỏ các hủ tục lạc hậu. Hồ
Chí Minh đã nhận thấy được mối quan hệ và sự tác động của nền văn hóa mới đối
với đời sống tinh thần của xã hội mới, “Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì văn hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình
thức” [11, tr. 60]; “Con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn hoá
nghệ thuật xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức [12, tr. 516]. Luận
điểm này chứng tỏ Hồ Chí Minh đã nhận thấy tính hai mặt của văn hóa truyền
thống. Theo Người, một mặt, để xây dựng nền văn hóa cần phải kế thừa và phát
huy các giá trị, chuẩn mực của truyền thống dân tộc, mặt khác, văn hóa dân tộc
cần tự làm giàu bằng việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, làm
cho nền văn hoá mới ở Việt Nam vừa mang đặc trưng phản ánh cốt cách, bản sắc và
truyền thống của văn hoá dân tộc, vừa đồng hành và gắn với hơi thở của đời sống
xã hội, phù hợp với sự phát triển của khoa học và văn minh nhân loại.
Sinh
ra và lớn lên trong một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, chứng kiến cảnh lầm
than của một dân tộc mất nước, Nguyễn Ái Quốc đã sớm bộc lộ là người có tinh
thần yêu nước sâu sắc, cả cuộc đời, Người chỉ có mong muốn giải phóng dân tộc
khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, đế quốc, phong kiến. Người đã lên án
chính sách ngu dân, vạch trần tâm địa xấu xa, bỉ ổi của chủ nghĩa thực dân đối
với các dân tộc thuộc địa, "Chúng tôi thiết tưởng rằng, những người Pháp
thông minh và chân thực biết tỏ tính ưu việt tự nhiên của mình ở bất cứ nơi nào
mình sống, thì không cần phải sống giữa những người bản xứ vĩnh viễn bị khoá
mồm bịt miệng và bị xỏ mũi, mới có thể giữ được tính ưu việt đó [4, tr. 4]. Để
thay thế văn hoá nô dịch của chủ nghĩa thực dân bằng một nền văn hoá mới cách
mạng, ngay sau khi vừa giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã đề nghị mở ngay chiến
dịch chống nạn dốt, bởi, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Người cho rằng,
văn hoá là tinh hoa của dân tộc, văn hoá phải góp phần khẳng định vị thế của
dân tộc. Vì thế, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
II của Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những mục tiêu cơ
bản mà cách mạng Việt Nam cần phải đạt được trong lĩnh vực văn hoá, đó là:
"Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn
hoá đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân
tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền
văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng" [8, tr. 173].
Trong
cuốn “Đời sống mới”, Chủ tịch Hồ Chí Minh với phương pháp biện chứng đã có
những luận điểm rất sâu sắc khi tiếp thu văn hóa truyền thống, “Đời sống mới
không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà
xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức, thì phải sửa đổi
lại cho hợp lí… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm… Cái gì mới mà hay
thì ta phải làm… [7, tr. 112 - 113]. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định rất rõ tiếp thu cái mới không có nghĩa là vứt bỏ toàn bộ cái cũ. Trong khi
kế thừa văn hóa truyền thống cần có sự lọc bỏ để phù hợp với xu thế phát triển
của dân tộc và thời đại. Năm 1957, trong Thư gửi Hội nghị cán bộ văn hoá, Người
đã căn dặn cẩn thận: “… công tác văn hoá vẫn còn những thiếu sót: Phong trào
văn hoá có bề rộng, chưa có bề sâu; nặng về mặt giải trí, mà còn nhẹ về mặt
nâng cao tri thức của quần chúng. Về mặt tổ chức và lãnh đạo còn thiếu chặt
chẽ, chưa dựa hẳn vào lực lượng của nhân dân, chưa dùng hết khả năng của các
nhà trí thức. Việc phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc (nhưng tránh "phục
cổ" một cách máy móc) và học tập văn hoá tiên tiến của các nước (trước hết
là các nước bạn) cũng chưa làm được nhiều” [10, tr. 326].
Khi
về thăm Nghệ - Tĩnh, Người nói: “Nhân dân ta nói chung cũng như nhân dân Hà
Tĩnh nói riêng, có một truyền thống tốt đẹp, nhưng hiện nay về thuần phong mỹ
tục bị sút kém... Vì vậy, đồng bào phải cố gắng xây dựng lại thuần phong mỹ tục
để hạn chế và tiễu trừ những tệ nạn đó” [10, tr. 426]. Như vậy, Hồ Chí Minh đã luôn
dựa trên phép biện chứng duy vật để kế thừa những giá trị, chuẩn mực văn hóa
truyền thống, đồng thời, loại bỏ các yếu tố lạc hậu của truyền thống để xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Những định hướng của Hồ Chí
Minh về tiếp thu văn hóa truyền thống đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, đặc biệt
trong những năm qua với chủ trương khôi phục văn hóa truyền thống, không ít địa
phương đã khôi phục lại cả những hủ tục lạc hậu, phản văn hóa, phản giá trị. Trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, việc phát huy các giá trị yêu
nước, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, truyền thống cần cù, sáng tạo
trong lao động sản xuất, trong học tập… có ý nghĩa vô cùng to lớn để khẳng định
bản sắc và bản lĩnh Việt Nam. Những giá trị, chuẩn mực văn hóa truyền thống
không chỉ là sức mạnh của trí tuệ, tình cảm mà còn là lòng tự hào dân tộc, là
đạo đức và lý tưởng mà dân tộc đã lựa chọn. Xây dựng đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay tất yếu phải hội nhập toàn
diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Việc tôn trọng, giữ gìn
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc sẽ tạo ra những “kháng thể” để chống
lại “phản văn hóa”, “phản giá trị”, tạo ra khả năng tự điều chỉnh, tự cân bằng
trong quá trình hội nhập quốc tế.
Đề
cập đến văn hoá dân tộc và để văn hoá dân tộc có điều kiện phát triển, Hồ Chí
Minh cho rằng “Văn hoá Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông phương và
Tây phương chung đúc lại (...). Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta
phải học lấy để phải tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm
tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay, trau dồi cho văn hoá Việt Nam thật có tinh
thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ” [12, tr. 350]. Do đó, Hồ
Chí Minh đã khẳng định cần phải học hỏi những cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu,
Mỹ, Người đã từng nói với một nhà văn Liên Xô: “Có điều các bạn chớ hiểu là tôi
cho rằng, chúng tôi cần phải dứt bỏ văn hoá nào đó, dù là văn hoá Pháp đi nữa.
Ngược lại, tôi muốn nói điều khác. Nói đến việc mở rộng kiến thức của mình về
văn hoá thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hoá Xôviết - chúng tôi thiếu -
nhưng đồng thời phải tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt chước... Văn hoá của các
dân tộc khác cần phải được nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới
có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hoá của chính mình” [13, tr. 516 – 517].
Theo Hồ Chí Minh, văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất. Một nền văn hóa chân
chính phải dựa trên cơ sở gốc là văn hoá dân tộc, lấy đó là điều kiện, cơ sở để
tiếp thu văn hoá nhân loại.
3. Một số quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
Kế
thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc kế thừa và xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa, thấy
được mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với chính trị, kinh tế… Có thể khái
quát một số quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh:
Thứ
nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là
phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,
trong đó phải giải quyết hài hoà giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa, đảm bảo
cho đất nước phát triển bền vững và lâu dài. Mọi hoạt động kinh tế phải đặt con
người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa phải chú ý đến hiệu quả kinh
tế, vừa phải chú ý đến hiệu quả xã hội và văn hóa. Đồng thời, phải chú trọng
khai thác văn hóa như một nguồn lực đặc biệt để phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa và du lịch
văn hóa… Như vậy, văn hóa không phải là kết quả thụ động của nền kinh tế mà là
nguyên nhân, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nền văn hóa mà chúng ta xây
dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm này xác định
phương hướng và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam mà Đảng và Nhà nước tập
trung xây dựng trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Trình độ tiên tiến của nền văn
hóa phải thống nhất với bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định tầm vóc, vị thế
của văn hóa dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
Nền
văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt
lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì
hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối
quan hệ hài hoà giữa tự nhiên với cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên với xã hội.
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo,
cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân tộc; là dấu hiệu cơ
bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước. “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống” [2, tr.
56]. Bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở để liên kết xã hội và liên kết các thế
hệ, tạo nên sức mạnh tinh thần của dân tộc. Đứng trước sự bùng nổ của cách mạng
khoa học - công nghệ và sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, các
quốc gia, dân tộc, nhất là các nước đang phát triển đều ý thức sâu sắc việc bảo
vệ, giữ gìn các giá trị đặc sắc và đa dạng của văn hóa dân tộc, chống nguy cơ
bị đồng hóa. Vì vậy, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành yêu
cầu khách quan và là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền
văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tính thống
nhất của nền văn hóa Việt Nam thể hiện ở sự thống nhất về truyền thống yêu nước
và tinh thần đại đoàn kết của các dân tộc anh em trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; thống nhất ở việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước đối với việc xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa; thống nhất ở ý
chí và nguyện vọng chung của cộng đồng các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay. Tính thống nhất là điều kiện để đảm bảo sự phát triển đa dạng của văn hóa
các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ
tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Mọi người dân Việt Nam phấn
đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đều
có vinh dự, trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ tham gia xây dựng và phát triển
nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại
đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó
với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hóa.
Thứ
năm, văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Văn hóa là một mặt trận, đội ngũ trí thức,
văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa phải là chiến sĩ trên mặt trận đó. Mặt
trận văn hóa là nơi đoàn kết thống nhất ý chí và tình cảm của nhân dân, của đội
ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa vào thực hiện mục tiêu
chung của sự nghiệp đổi mới do Đảng đề ra. Mặt trận văn hóa là nơi đấu tranh
chống lại cái xấu, cái ác và cái giả, khẳng định cái đúng, cái tốt và cái đẹp
nhằm xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh. Đồng thời, đây cũng là
nơi để chống lại mưu toan phá hoại của kẻ thù, đặc biệt là âm mưu "Diễn
biến hoà bình" bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch quốc tế trên lĩnh
vực tư tưởng, văn hóa. Trong quá trình đó, “xây” phải đi đôi với “chống” và lấy
“xây” làm trọng tâm. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân
tộc, sáng tạo nên những giá trị mới tích cực và tiến bộ, loại bỏ những yếu tố
bảo thủ và lạc hậu trong nền văn hóa, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào
toàn bộ đời sống xã hội, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ, văn minh, nhân bản
là một quá trình đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và
cần phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan
duy ý chí [3].
4. Kết luận
Trong
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí quan trọng,
nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của Việt Nam với
văn hóa phương Đông và Phương Tây, là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,
giữa dân tộc và quốc tế mà cốt lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với
tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Hiện
nay, trước những biến động của tình hình thế
giới và khu vực đang tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của dân tộc, một mặt,
chúng ta tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hoá truyền thống, mặt khác,
kiên quyết xoá bỏ những hủ tục, tàn dư, lạc hậu của truyền thống, đồng thời chủ
động tiếp biến các giá trị, chuẩn mực văn hóa du nhập từ bên ngoài, kiên quyết
không “nhập khẩu” văn hóa bằng mọi giá, mà chỉ chắt lọc những tinh hoa văn hóa
nhân loại, phê phán, đấu tranh, xóa bỏ những cái là “phản văn hóa”, “phản giá
trị”... Đặc biệt, để văn hoá tăng thêm sức mạnh, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì mỗi nhà trường, gia đình, cá nhân cần
phải giữ gìn và phổ biến văn hóa dân tộc, đồng thời, đấu tranh chống lại các quan
điểm phản động, thù địch muốn tìm cách thôn tính, đồng hóa văn hóa dân tộc.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1.
Trần Văn Bính, Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội,
2006.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
3.
Phạm Duy Đức, Quan điểm
của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
4.
Hồ Chí
Minh, Toàn tập (tập 1), NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000.
5.
Hồ Chí
Minh, Toàn tập (tập 3), NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995.
6.
Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 3),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
7.
Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 5), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2011.
8.
Hồ Chí
Minh, Toàn tập (tập 6), NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000.
9.
Hồ Chí
Minh, Toàn tập (tập 8), NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000.
10. Hồ Chí Minh, Toàn
tập (tập 8), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 10), NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
12. Hồ Chí Minh, Về văn hóa, Bảo tàng
Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1997.
13. Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, NXB Văn học, Hà Nội, 1981.
14. Nghị
quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo
Nhân dân, ngày 19 - 5 - 1989.
Nhận xét
Đăng nhận xét