NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NGUỒN
NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
Khoa Lý luận chính
trị và Xã hội – Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Email: levanhungdhnn@gmail.com
Đt: 0978.020.006
Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội.
Email:
hathibac0502@gmail.com
Đt 0975.842.858
TÓM
TẮT
Thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội những năm qua đã chứng minh, khoa học xã hội
và nhân văn ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia. Để khoa học xã hội và nhân văn có điều kiện phát triển ngang tầm với sứ mạng
của nó và các khoa học khác lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố từ cơ chế, chính
sách, đầu tư của Nhà nước… đặc biệt phụ thuộc trực tiếp vào sự phát triển của đội
ngũ cán bộ, giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn. Bài viết tập trung vào một số vấn đề sau: thứ nhất, một
số vấn đề lý luận về nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam; thứ
hai, một số vấn đề thực tiễn đối với nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn
ở Việt Nam; thứ ba, một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội
và nhân văn ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Nguồn nhân lực; Khoa học xã hội và
Nhân văn; Nguồn nhân lực khoa học xã hội và Nhân văn
1. Một số vấn đề lý luận về nguồn nhân lực khoa học xã hội
và nhân văn ở Việt Nam hiện nay
* Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm khoa học ra đời
sớm, có thể hiểu khoa học là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực
tiễn và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn phản ánh dưới dạng logic trừu tượng những
thuộc tính, kết cấu, những mối liên hệ bản chất, những quy luật của tự nhiên,
xã hội và bản thân con người. Có nhiều cách phân loại khoa học, phân loại khoa
học theo đối tượng nghiên cứu có khoa học tự nhiên và công nghệ nghiên cứu các
sự vật, hiện tượng và quy luật vận động nhằm tìm cách chinh phục, sử dụng
chúng; khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu các hiện tượng, quá trình, các
quy luật vận động, phát triển của xã hội nhằm tổ chức quản lý và thúc đẩy xã hội
phát triển. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã phân chia khoa học thành các nhóm ngành gồm nhóm khoa học tự
nhiên; nhóm khoa học nông nghiệp; nhóm khoa học y học; nhóm khoa học kỹ thuật
và nhóm khoa học xã hội... Như vậy, khoa học xã hội và nhân văn là một nhóm ngành của khoa học có
nhiệm vụ nghiên cứu các quy luật hình thành và phát triển của xã hội và con người,
của mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, khoa học xã hội và nhân văn là khái niệm
chung bao quát nhất được chỉ tất cả các ngành khoa học nghiên cứu về quan hệ giữa
con người với con người, con người và xã hội, cả quan hệ vật chất và tinh thần.
Khoa học xã hội và nhân văn có chức năng nghiên cứu cơ bản, toàn diện về xã hội
và con người Việt Nam, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối,
chính sách xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao
trình độ dân trí, tham gia thẩm định các chương trình, dự án phát triển kinh tế
- xã hội, xây dựng, phát triển nền khoa học xã hội và nhân văn đáp ứng các yêu
cầu phát triển của đất nước.
Như vậy, khoa học xã hội và nhân văn có
vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của mỗi quốc
gia. Ngày
nay, dù con người đã đạt được những bước tiến dài trong việc chinh phục tự
nhiên, nhưng con người vẫn đang đối mặt với những vấn đề xã hội trầm trọng rất
khó giải quyết như vấn đề áp bức, bất công, chiến tranh, xung đột, phân hóa
giàu nghèo, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo… Đó là những bài toán đang đặt ra đòi
hỏi các nhà khoa học xã hội và nhân văn phải tập trung giải quyết.
Chủ thể nghiên cứu, đào tạo,
bảo tồn và phát triển khoa học xã hội và nhân văn trước hết là đội ngũ trí thức
khoa học xã hội và nhân văn, bao gồm nhà nghiên cứu, nhà giáo, nhà quản lý. Bởi
vậy có thể hiểu nguồn nhân lực khoa học xã hội
và nhân văn
là tập hợp những người tham gia vào các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và phát
triển khoa học xã hội và nhân văn. Nguồn nhân lực này bao gồm:
Thứ nhất, lực lượng
nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp: Nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn với chức năng nghiên cứu sáng tạo được gọi bằng nhiều tên khác
nhau như là nhà nghiên cứu hay nhà khoa học. Các nhà nghiên cứu là những người
có trình độ đại học trở lên, khác nhau về trình độ, chức danh, chuyên môn và
thường làm việc ở các tổ chức nghiên cứu khoa học.
Thứ hai, lực lượng giảng
dạy được đào tạo bậc cao: Đây là lực lượng đông đảo gồm những người có trình độ
đại học trở lên. Họ làm công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn ở các học viện, các trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên họ không chỉ giảng
dạy thuần tuý mà còn nghiên cứu khoa học cũng như hướng dẫn người học nghiên cứu
khoa học.
Thứ ba, lực lượng các nhà
quản lý: Lực lượng này gồm các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu làm công tác quản
lý, điều hành hoạt động khoa học xã hội và
nhân văn ở các cơ quan Đảng; các
cơ quan quản lý từ các Bộ, ban ngành, sở, viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên
cứu...; các đoàn thể thuộc hệ thống chính trị; các tổ chức hiệp hội trong lĩnh
vực khoa học xã hội và nhân văn...
* Quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn
Thực tiễn phát triển kinh
tế - xã hội ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở các quốc gia phát triển những
năm qua đã chứng minh rằng, động lực cơ bản, chủ yếu để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững ở mỗi quốc gia chính là nguồn lực con người, chứ
không phải là nguồn lực đất đai, khoáng sản... Do đó, cho đến nay đa số các quốc
gia đều quan tâm đầu tư phát triển nguồn lực con người, coi đó là cơ sở chắc chắn
nhất để phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, không phải cứ
có con người là đã có nguồn lực con người, con người chỉ trở thành nguồn lực
khi họ được giáo dục, đào tạo về kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hình
thành nên năng lực, phẩm chất. Do đó, để phát triển nguồn nhân lực nói chung,
nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn nói riêng cần phải đẩy mạnh phát triển
giáo dục và đào tạo.
Trong quá trình lãnh đạo
công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức được mối
quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực với giáo dục và đào tạo, “Phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những nguồn lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[1]. Đặc biệt xem “Con người
là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”[2].
Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng đã đánh giá trong những năm qua “khoa học, công nghệ đã có
đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ
khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, bảo về
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa
Việt Nam”[3]. Để phát triển khoa học
nói chung, khoa học xã hội và nhân văn nói riêng cần phải tập trung xây dựng và
phát triển đội ngũ trí thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Xây dựng đội
ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng
tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả
cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống
hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất
nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan
nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”[4]. Để tạo điều kiện cho đội
ngũ các nhà khoa học nói chung, khoa học xã hội và nhân văn nói riêng nghiên cứu,
đào tạo, chuyển giao và ứng dụng các sản phẩm khoa học công nghệ vào thực tiễn
đời sống, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường…
2. Thực trạng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở
Việt Nam hiện nay
Hiện nay, theo số liệu của
Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ),
Việt Nam có khoảng 1.500 viện, trung tâm nghiên cứu, với gần 2,6 triệu cán bộ
làm việc (trong đó có khoảng 60.000 người trực tiếp tham gia công tác nghiên cứu
khoa học tại các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp). Việt Nam đã
đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên. Trung
tâm khoa học xã hội và nhân văn lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam có 38 đơn vị nghiên cứu khoa học cơ bản đầu ngành về
khoa học xã hội và nhân văn với tổng số cán bộ là 1.622 người, có gần 1000 cán
bộ nghiên cứu khoa học xã hội (và 724 cán bộ phục vụ nghiên cứu), gồm 21 giáo
sư, 130 phó giáo sư, 228 tiến sĩ khoa học và tiến sĩ, 416 thạc sĩ. Số lượng cán
bộ của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ở độ
tuổi từ 41 trở lên, chiếm 50%[5]. Tiến sỹ Trần Văn Hải (Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội) đã cho rằng, chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay thấp, xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân từ cách đối xử không công bằng đối với khoa học xã hội
và nhân văn. Bởi vì, do tính đặc thù của khoa học xã hội và nhân văn, các công
trình nghiên cứu của ngành cũng ít được công bố trên các tạp chí khoa học quốc
tế. Vì vậy thường dẫn đến những kết luận tiêu cực là các nghiên cứu về khoa học
xã hội và nhân văn của Việt Nam đã ít về số lượng lại yếu về chất lượng[6]. Thực tế cho thấy, nguồn
nhân lực khoa học xã hội và nhân văn những năm qua đã và đang có những đóng góp
to lớn cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Thực tiễn cho thấy, sự nghiệp đổi mới bắt
đầu từ đổi mới tư duy, tư duy mới về sự phát triển đất nước thể hiện ở đường lối
chính sách mới của Đảng và Nhà nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đường
lối chính sách mới đó được hình thành dựa trên căn cứ khoa học của những nhà
khoa học xã hội và nhân văn phát hiện ra. Điều đó cho thấy có những cách hiểu lệch
lạc về vị trí, vai trò và đóng góp của nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân
văn cần phê phán, lên án. Bởi vì thực tế đã chứng minh rằng những sai lầm ở
lĩnh vực khoa học, công nghệ có thể gây thiệt hại lớn về tiền của nhưng vẫn có
thể khắc phục được, trong khi đó những sai lầm về tư tưởng, chính trị, về những
quyết sách lớn trong việc đề ra chủ trương, chính sách, chiến lược không thể khắc
phục được, thậm chí có thể kéo lùi lịch sử phát triển của dân tộc, của quốc tế
hàng trăm năm, phải trả giá bằng nước mắt, máu, xương của hàng triệu người.
Bên cạnh mặt tích cực,
nguồn nhân lực khoa học xã hội Việt Nam những năm qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế,
như yếu về chuyên môn và thiếu về số lượng. Việc đào tạo, sử dụng còn bất hợp
lý dẫn đến nhiều người không làm đúng chuyên ngành đào tạo. Những nhà khoa học
xã hội và nhân văn có trình độ chuyên môn cao, có công trình đăng tải trên các
tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới còn ít. Việc phê phán các quan điểm phản
động chưa phát huy được hiệu quả bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên
nhân là do trình độ ngoại ngữ của các nhà khoa học xã hội và nhân văn còn hạn
chế. Ở nhiều trường đại học hiện nay vẫn còn tình trạng tách rời giữa giảng dạy
với nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn, thiếu sự gắn kết giữa các viện nghiên cứu
và các trường đại học. Thực tế cho thấy, trong không ít trường đại học hiện
nay, nhiệm vụ chính của một giảng viên chủ yếu vẫn là giảng dạy, còn nghiên cứu
khoa học một phần nào đó chưa phải bắt buộc (có trường vẫn có cơ chế linh hoạt
để giảng viên giảng dạy thêm tiết và quy đổi theo tỷ lệ một tiết giảng dạy bằng
hai tiết nghiên cứu khoa học), mặt khác, thu nhập mang lại từ nghiên cứu khoa học
cũng thấp hơn so với giảng dạy, đó còn chưa kể đến cơ chế, thủ tục thanh toán
tài chính cho các đề tài, dự án quá phức tạp, làm triệt tiêu động lực nghiên cứu
của các nhà khoa học nói chung, trong đó có các nhà khoa học xã hội và nhân
văn.
Ở nhiều cơ quan, đội ngũ
chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ngày một mỏng,
song chưa có đội ngũ kế cận tương xứng, phần lớn những người có học hàm giáo sư
ở lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn có độ tuổi trên 60, phó giáo sư phần lớn
ở độ tuổi trên 40, những người dưới 40 chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn[7]. Theo thống kê của Bộ Giáo
dục và Đào tạo cả nước có 1,8 triệu lượt hồ sơ dự thi đại học thì trong đó chỉ
có hơn 80 nghìn hồ sơ đăng ký vào ngành khoa học xã hội, tức chỉ chiếm có
4,43%. Nếu xét theo số lượng hồ sơ, nhóm ngành này đã giảm gần 8% (từ khoảng 87
nghìn hồ sơ năm 2011 xuống còn 80.298 hồ sơ năm 2012)[8]. Những con số trên đây
không chỉ phản ánh sự mất cân đối về cơ cấu ngành tuyển sinh của các trường, mà
còn phản ánh xu hướng chọn ngành của giới trẻ hiện nay ngày càng trở nên thực dụng. Thực tế này đòi hỏi nhà quản lý
cần phải tìm ra giải pháp để khắc phục nếu không muốn có sự khủng hoảng về
nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn trong tương lai.
Cũng đề cập nguồn bổ sung cho đội ngũ nhân lực khoa học xã
hội và nhân văn, PGS. TS Nguyễn Kim Sơn đã cho rằng, trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn,
Đại học quốc gia Hà Nội bình quân mỗi năm số thí sinh thi khối C giảm khoảng
10%. Vấn đề số lượng thí sinh thi vào các ngành khoa học xã hội nhân văn giảm
mạnh ảnh hưởng lớn tới cơ cấu nguồn nhân lực của xã hội trong tương lai[9].
Không chỉ kém thu hút thí sinh như các ngành khoa học khác,
ngành khoa học xã hội và nhân văn còn phải đứng trước bài toán về chất lượng
đào tạo. Theo tiến sỹ Phạm Mạnh Hà (Đại học quốc gia Hà Nội), kết quả một cuộc
khảo sát các sinh viên đang theo học năm thứ 4, thứ 5 khối khoa
học xã hội và nhân văn
tại một số trường ở Hà Nội cho thấy, chỉ có chưa đến 30% sinh viên hiểu rõ về
công việc mình sẽ làm sau khi tốt nghiệp, 70% còn lại chưa hề có ý niệm công
việc trong tương lai[10].
Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình định hướng việc làm của
sinh viên chính là nội dung và chương trình đào tạo chưa theo kịp với xu thế,
đòi hỏi của đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay. Tại một số trường đào tạo
khối ngành khoa học xã hội và nhân văn, chương trình dàn trải, cụ thể,
trong 20 chuyên ngành đào tạo, số tín chỉ trung bình là 134/chuyên ngành; với
60 môn học khác nhau, số tín chỉ trung bình cho một môn là 2,02. Số môn học
thuộc khối kiến thức chung chiếm tới 22,5%, số tín chỉ cho các môn học thực
hành và thực tập chỉ chiếm 5,25%, khối kiến thức chuyên ngành chỉ chiếm 18,65%.
Các môn học đều có bố trí giờ thực hành, thảo luận, tuy nhiên có tới 82,5%
giảng viên sử dụng giờ thực hành để giảng dạy lý thuyết hoặc thảo luận trên lớp[11].
Điều này cho thấy, việc đào tạo sinh viên khoa học xã hội và nhân
văn chủ yếu vẫn là trang bị lý thuyết
mà chưa chú trọng đến kỹ năng thực hành, dẫn đến sinh viên gặp nhiều khó khăn
khi phải vận dụng các lý thuyết được học để giải quyết những vấn đề thực tế.
Mặc dù có khó khăn trong việc thu hút đầu vào ở khối ngành
khoa học xã hội và nhân văn, tuy nhiên, đầu ra của khối ngành này được đánh giá
là khá rộng mở. Bởi vì, trong nền kinh tế tri thức như hiện nay, các sản phẩm
bán ra trên thị trường, hàm lượng trí tuệ xã hội và nhân văn ngày càng lớn. Từ
thẩm mỹ, mẫu mã, tâm lý tiêu dùng, các lĩnh vực truyền thông… đều hết sức quan
trọng. Đó là chưa kể tới khoa học quản lý điều hành sản xuất, quan hệ doanh
nghiệp, phát triển nhân lực, quan hệ khách hàng, quảng bá doanh nghiệp… đều
thuộc lĩnh vực của khoa học xã hội và nhân văn. Các lĩnh vực dịch vụ xã hội,
các ngành công nghiệp giải trí thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn đem lại nhiều
tiền bạc chẳng kém các lĩnh vực công nghệ cao ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Do đó, sự suy giảm sức thu hút của các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn vừa
là dấu hiệu của sự khủng hoảng hệ giá trị, khủng hoảng nhân văn, đồng thời cũng
cho thấy chính sự phát triển kinh tế có vấn đề chưa hợp lý[12].
Như vậy, đánh giá tổng thể thì nguồn nhân lực khoa học xã
hội và nhân văn ở Việt Nam hiện nay còn thiếu về số lượng, đặc biệt còn hạn chế
về trình độ, năng lực, ngoại ngữ, về các công bố quốc tế... Đặc biệt, vấn đề
đáng lo ngại hiện nay là nguồn bổ sung lực lượng cho đội ngũ này không chỉ ít
về số lượng mà còn hạn chế về chất lượng, đó là vấn đề cấp bách đặt ra đối với
các nhà hoạch định chính sách, cần phải có cơ chế, chính sách phù hợp để khắc
phục những bất cập này.
3.
Một số giải pháp phát triển bền vững nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn
ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra các phương hướng để thúc
đẩy phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt cần tăng cường “liên kết giữa
các tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp; mở rộng hình thức liên kết
giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông. Khuyến khích, tạo điều
kiện để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ
khoa học – kỹ thuật, đổi mới công nghệ”[13]. Để thực hiện được phương
hướng đó, Nhà nước phải có cơ chế thu hút, động viên và đãi ngộ các cán bộ khoa
học tạo động lực để họ cống hiến, sáng tạo “Xây dựng và thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận
lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài
năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Thực
hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học”[14].
Như vậy, để phát triển
nguồn nhân lực khoa học nói chung, nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn
nói riêng, Đảng và Nhà nước cần phải có hệ thống các cơ chế, chính sách tác động
vào lực lượng này, đặc biệt phải quan tâm đầu tư từ gốc rễ - muốn vậy phải có
chính sách và đầu tư đột phá cho giáo dục và đào tạo và những người làm trong
ngành giáo dục và đào tạo. Bởi vì, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011
- 2020 đã xác định rõ một trong ba đột phá là phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Để phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở
Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế, cần thực hiện nhiều
giải pháp đồng bộ:
Thứ nhất, đối với các gia đình cần phải
quan tâm định hướng, giáo dục để con cái có kiến thức, đam mê với truyền thống
lịch sử, bản sắc văn hóa dân tộc, nền nếp gia phong, phong tục, tập quán… trên
cơ sở đó, gia đình mới khơi gợi và định hướng cho con cái hướng đến khoa học xã
hội và nhân văn. Theo tôi, việc thế hệ trẻ hiện nay không yêu thích khoa học xã
hội và nhân văn, không hiểu biết truyền thống lịch sử dân tộc có nhiều nguyên
nhân, nhưng trước hết có nguyên nhân từ phía gia đình. Thực tế, nhiều bậc cha
mẹ đã buông lỏng, đặc biệt không ít trong số họ không có những hiểu biết tối
thiểu về lịch sử, về văn hóa truyền thống nên không thể giáo dục cho con cái
những giá trị nhân văn truyền thống. Bởi vậy để nguồn nhân lực khoa học xã hội
và nhân văn phát triển bền vững thì trước hết cần phải trang bị cho gia đình
các kiến thức về khoa học xã hội và nhân văn, gia đình góp phần lưu giữ, bảo
tồn, chuyển giao các giá trị, chuẩn mực nhân văn từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Thứ hai, cần có chính sách ưu tiên,
khuyến khích, ưu đãi, chăm lo cho những người học, người nghiên cứu, tới đãi
ngộ trong lao động, nghề nghiệp cho họ, bởi vì những ngành khoa học xã hội và
nhân văn liên quan trực tiếp tới chiến lược và lợi ích quốc gia. Do đó, trước
mắt Nhà nước có thể cân nhắc, đối với những ngành khoa học xã hội và nhân văn
có thể không thu học phí mà còn cần cấp học bổng để thu hút người học. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy nếu chỉ được miễn học phí, được ưu tiên, nhưng nghề
nghiệp sau này không đem lại thu nhập tốt và cơ hội phát triển thì vẫn khó thu
hút người học và làm việc trong các ngành đó (điển hình như các ngành sư phạm
những năm qua). Do đó, về lâu dài phải có những thay đổi gốc rễ, cần một giải
pháp tổng thể, có hệ thống, phải có điều tiết vĩ mô trong chiến lược phát triển
nguồn nhân lực quốc gia. Đặc biệt, đối với các trường đại học, cao đẳng đào tạo
những ngành khoa học xã hội và nhân văn thì việc tư vấn tuyển sinh, thông tin
hướng nghiệp cần làm thường xuyên để dần dần thay đổi nhận thức của gia đình và
bản thân người học. Tăng cường xúc tiến liên kết với cơ quan, đoàn thể, doanh
nghiệp để giải quyết đầu ra đào tạo cho khối ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn đào tạo nhân lực khoa học
xã hội và nhân văn. Trước hết, phải nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường
đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở trong
nước. Bên cạnh đó, cần chú trọng đưa các sinh viên ưu tú, giảng viên, cán bộ
quản lý học tập, tu nghiệp ở trường đại học, viện nghiên cứu có uy tín ở nước ngoài.
Tuy nhiên, khi đưa cán bộ đi học tập ở nước ngoài cần phải chú ý đến ngành và
chuyên ngành được đào tạo. Nếu không được đào tạo đúng ngành và chuyên ngành
thì với kiến thức, năng lực chuyên môn sâu hạn chế, đội ngũ này khó có thể trở
thành “đầu tầu” để thúc đẩy khoa học phát triển. Từ thực tế đó đặt ra yêu cầu
đối với lãnh đạo các trường, viện cần phải linh hoạt đối với từng đối tượng đi
học. Đối với đối tượng đi học ở nước ngoài, ban tổ chức cán bộ cần phải quan
tâm và kiểm soát ngành học, chuyên ngành học có gần với ngành, chuyên ngành đã
được đào tạo, với những môn học chính đang giảng dạy hay không? Có như vậy mới
nâng cao được chất lượng đào tạo, không thể đi học nước ngoài bằng mọi giá hoặc
chỉ cần đi nước ngoài lấy bằng cấp để chuẩn hóa, để “trang điểm” cho cá nhân,
cho trường, cho viện. Đối với đối tượng đi đào tạo ở trong nước, để nâng cao
chất lượng đào tạo, người học phải chọn những cơ sở đào tạo có chất lượng, đặc
biệt nên chọn hình thức đào tạo tập trung, nhà trường nên cắt mọi hoạt động giảng
dạy để đội ngũ này yên tâm học tập, nghiên cứu, đồng thời có chế độ ưu đãi, hỗ
trợ giúp đỡ đội ngũ này trong quá trình học tập. Cần có hình thức khen thưởng,
khuyến khích, động viên cho những người đạt thành tích cao trong học tập, nâng
cao trình độ hoặc có thêm bằng cấp mới, hoặc đạt những thành tích xuất sắc
trong công tác quản lý, giảng dạy hoặc có những nghiên cứu mới trong ngành khoa
học xã hội và nhân văn.
Thứ tư, cần sử dụng hiệu quả nguồn nhân
lực khoa học xã hội và nhân văn sau khi đào tạo để không dẫn đến tình trạng
lãng phí trong đào tạo. Hoàn thiện chính sách tuyển dụng, đãi ngộ đội ngũ cán
bộ có trình độ cao, có đạo đức nghề nghiệp, có tác phong làm việc khoa học.
Thực tế hiện nay nhiều cán bộ trẻ có trình độ cao, được đào tạo bài bản lại không
muốn làm công tác nghiên cứu, giảng dạy. Nguyên nhân chủ yếu là do thu nhập
thấp, các điều kiện nghiên cứu của các trường đại học, viện nghiên cứu còn hạn
chế so với các đơn vị sản xuất và dịch vụ, đặc biệt thấp hơn nhiều so với các
viện nghiên cứu, các trường đại học trong khu vực và thế giới nên đã không tạo
được sức hút đối với đội ngũ này.
Tóm lại: Nguồn nhân lực
khoa học xã hội và nhân văn là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, việc phát triển nguồn
nhân lực này ở Việt Nam những năm qua đang phải đối diện với nhiều thách thức,
không chỉ đối với đội ngũ hiện tại mà còn cả đối với đội ngũ kế cận trong tương
lai. Quan tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn
đã và đang góp phần hình thành con người với tư cách là chủ thể của xã hội, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy, việc quan tâm
đào tạo nguồn nhân lực này vừa mang tính cấp thiết, vừa là định hướng lâu dài
đối với nghiệp cách mạng, vừa góp phần vào sự nghiệp đổi mới toàn diện giáo dục
và đào tạo ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Kiều Quỳnh Anh
(2013), Phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn: Thực trạng và giải
pháp, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71).
2.
Đảng Cộng sản Việt
Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc
gia, HN.
3.
Đảng Cộng sản Việt
Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc
gia, HN.
4.
Đảng Cộng sản Việt
Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng trung
ương Đảng, HN.
5.
Vũ Thị Thu Hiền
(2016), Nâng cao chất lượng đào tạo các môn khoa học xã hội và nhân văn hiện
nay – Cần quan tâm tổ chức tự học cho sinh viên, trong cuốn Giá trị và phương
pháp giảng dạy các môn khoa học xã hội trong nhà trường phổ thông, Nxb Đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
6.
Ngô Văn Lệ (2016),
Xây dựng đại học định hướng nghiên cứu thuộc các ngành khoa học xã hội và nhân
văn góp phần đổi mới giáo dục, trong cuốn Giá trị và phương pháp giảng dạy các
môn khoa học xã hội trong nhà trường phổ thông, Nxb Đại học quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh.
7.
PGS. TS Nguyễn Kim
Sơn (2012), Khoa học xã hội & Nhân văn: Từ thực tiễn xã hội đến giáo dục đại
học, Bản tin Đại học quốc gia Hà Nội, số 256.
8.
Khánh Vũ (2013), Nhân
lực khối ngành khoa học xã hội và nhân văn: Đối diện nhiều thách thức, Báo Hà Nội
Mới.
* Khoa Lý luận chính trị
và Xã hội – Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
[1] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, HN, tr. 108 - 109.
[2] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị
Quốc gia, HN, tr. 76.
[3] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng
trung ương Đảng, HN, tr. 118.
[4] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng
trung ương Đảng, HN, tr. 161 – 162.
[5] Kiều Quỳnh Anh (2013), Phát triển
nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí
khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71), tr. 59.
[6] Khánh Vũ (2013), Nhân lực khối
ngành khoa học xã hội và nhân văn: Đối diện nhiều thách thức, Báo Hà Nội Mới.
[7] Ngô Văn Lệ (2016): Xây dựng đại học
định hướng nghiên cứu thuộc các ngành khoa học xã hội và nhân văn góp phần đổi
mới giáo dục, trong cuốn Giá trị và phương pháp giảng dạy các môn khoa học xã hội
trong nhà trường phổ thông, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr. 16.
[8] Vũ Thị Thu Hiền (2016): Nâng cao
chất lượng đào tạo các môn khoa học xã hội và nhân văn hiện nay – Cần quan tâm
tổ chức tự học cho sinh viên, trong cuốn Giá trị và phương pháp giảng dạy các
môn khoa học xã hội trong nhà trường phổ thông, Nxb Đại học quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh, tr. 171.
[9] PGS. TS Nguyễn
Kim Sơn (2012), Khoa học xã hội & Nhân văn: Từ thực tiễn xã hội đến giáo dục
đại học, Bản tin Đại học quốc gia Hà Nội, số 256, tr. 7 – 8.
[10] Khánh
Vũ (2013), Nhân lực khối ngành khoa học xã hội và nhân văn: Đối diện nhiều
thách thức, Báo Giáo dục điện tử.
[11] Khánh Vũ
(2013), Nhân lực khối ngành khoa học xã hội và nhân văn: Đối diện nhiều thách
thức, Báo Giáo dục điện tử.
[12] PGS. TS Nguyễn
Kim Sơn (2012), Khoa học xã hội & Nhân văn: Từ thực tiễn xã hội đến giáo dục
đại học, Bản tin Đại học quốc gia Hà Nội, số 256, tr. 8.
[13] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng
trung ương Đảng, HN, tr. 122.
[14] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng
trung ương Đảng, HN, tr. 122.
Nhận xét
Đăng nhận xét