TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ, CHUẨN MỰC VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY

TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ, CHUẨN MỰC VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY
TS. LÊ VĂN HÙNG
                                          ThS. NGUYỄN THỊ THANH HÒA
                                      Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Tạp chí Giáo dục và xã hội, số 96 (157) tháng 3/2019, tr. 92-97.          

Tóm tắt
       Văn hóa gia đình là một bộ phận cấu thành nên nền văn hóa dân tộc Việt Nam, là sản phẩm của quá trình dựng nước và giữ nước. Hiện nay, hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập phải giữ gìn được bản sắc riêng. Thực tế từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới đất nước mang lại nhiều thành tựu nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt là sự tác động mặt trái của văn hóa phương Tây dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực… Một trong những giải pháp để giữ gìn nền văn hóa dân tộc là phải quan tâm đến giáo dục văn hóa gia đình.
Từ khóa: Văn hóa gia đình; văn hóa dân tộc; văn hóa Việt Nam.


1. Mở đầu
Văn hóa gia đình Việt Nam là sự kết tinh của nhiều giá trị, chuẩn mực văn hóa điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình, trong đó nổi bật là tình yêu thương, sự thủy chung son sắc giữa vợ và chồng; sự hy sinh và tình thương vô bờ bến của cha mẹ đối với con cái; sự gắn bó máu thịt, hòa thuận giữa anh chị em trong gia đình; sự hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, v.v.. Những giá trị, chuẩn mực văn hóa đó đã kết tinh trở thành nền nếp, lối sống để gia đình Việt Nam mang bản sắc riêng, không hòa lẫn vào các thiết chế xã hội khác. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, do sự tác động đa chiều của các thiết chế và nhân tố khác, văn hóa gia đình Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn, nếu gia đình, nhà trường, xã hội không tăng cường giáo dục, phổ biến thì có thể dẫn đến hậu quả, thế hệ sau sinh ra nói đến truyền thống thì không biết, nói đến hiện đại thì mơ màng... Những con người đó sẽ không thể là người chủ tương lai của đất nước được. Do đó, để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập cần thực hiện nhiều giải pháp, trong các giải pháp đó, cần đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường giáo dục các giá trị, chuẩn mực của văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống và hiện đại.
2. Tăng cường giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình Việt Nam truyền thống
Các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu nên nó mang tính lịch sử. Do đó, nếu gia đình Việt Nam hiện nay vẫn bảo lưu toàn bộ các giá trị, chuẩn mực văn hóa đó trong khi điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa đã có nhiều thay đổi thì nó sẽ bộc lộ những hạn chế nhất định, kìm hãm tính chủ động, sáng tạo của các chủ thể trong việc tiếp thu cái mới, cái tiến bộ. Tất nhiên, con người của thời đại mới, điều kiện mới sẽ không thụ động sử dụng hoàn toàn những giá trị, chuẩn mực cũ mà luôn linh hoạt tạo ra các giá trị, chuẩn mực văn hóa mới, phù hợp với điều kiện, lối sống mới. Việc kế thừa các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT hiện nay phải thấm nhuần tinh thần của phép biện chứng duy vật, kế thừa, chắt lọc những “hạt nhân hợp lý” của văn hóa truyền thống, phù hợp với văn hóa, lối sống, con người mới, đồng thời, cũng phải ngăn chặn, lọc bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa truyền thống đến xây dựng VHGĐ Việt Nam hiện nay. Để kế thừa và phát huy các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐVN truyền thống cần thực hiện những giải pháp cụ thể sau:
Một là, tích cực tuyên truyền, giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT cho thế hệ trẻ. Việc giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT cần phải gắn với hình thức sống và sinh hoạt thường ngày của giới trẻ, tạo cho trẻ em có thói quen tự nhiên, sống và hành động theo các giá trị, chuẩn mực văn hóa. Hơn hết, chính môi trường gia đình lành mạnh, hạnh phúc, đời sống kinh tế ổn định là điều kiện cơ bản, đảm bảo cho việc giáo dục các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình cho trẻ em. Chỉ khi nào trẻ em được nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường như vậy, được tiếp nhận các giá trị, chuẩn mực truyền thống từ cha mẹ, ông bà, dòng họ thì khi lớn lên, các giá trị đó mới thẩm thấu, kết tinh thành thói quen, lối sống hàng ngày và mới là cầu nối để truyền tải các giá trị, chuẩn mực văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thực tế cho thấy, giáo dục và thực hiện các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT sẽ giúp các thành viên của gia đình tự bảo vệ, phòng, chống các tệ nạn xã hội, là cơ sở để thế hệ trẻ xác định được đâu là giá trị đích thực, văn minh, tiến bộ trong xã hội hiện đại để tiếp thu, học hỏi và đâu là những hiện tượng tiêu cực, lai căng đi ngược với xu thế văn minh, tiến bộ cần phải lọc bỏ; là cơ sở để thế hệ trẻ xây dựng nhân cách mới, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, nhưng cũng không quay lưng với quá khứ, tuy nhiên, quá khứ cần được chắt lọc cho phù hợp với điều kiện mới, nói cách khác, cần phải “hiện đại hóa truyền thống”.
Mỗi gia đình cần phải tạo ra môi trường sống lành mạnh, một không gian văn hóa ấm cúng, các thành viên luôn yêu thương, đùm bọc, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, hy sinh cho nhau, chứ không phải là sự so đo, ganh tị; không được đặt lợi ích cá nhân, lợi ích kinh tế lên trên các mối quan hệ tình cảm trong gia đình. Điều này có ý nghĩa quan trọng, làm cho các thành viên ý thức được rằng, việc tiếp thu các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT sẽ là hành trang để mỗi cá nhân tự tin, chủ động trong hội nhập quốc tế, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa văn hóa đang xâm nhập mạnh mẽ, mỗi quốc gia, dân tộc nếu không quan tâm giáo dục văn hóa truyền thống thì nguy cơ bị đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập là điều khó tránh khỏi.
Hai là, phát huy vai trò của người cao tuổi trong việc giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT. Trong điều kiện hiện nay, đa số các cha mẹ trẻ tuổi thường ít có thời gian để giáo dục con cái, do đó, việc phát huy vai trò của người cao tuổi trong giáo dục các cháu sẽ góp phần khỏa lấp khoảng trống trong giáo dục gia đình. Trong gia đình, điều đáng quý nhất ở người cao tuổi chính là lấy kinh nghiệm và lối sống mẫu mực để giáo dục con cháu, đó cũng là cái gốc của một gia đình văn hóa. Thực tiễn đã kiểm nghiệm, người cao tuổi có vị trí, vai trò quan trọng trong xây dựng văn hóa gia đình. Nhiều gia đình, dòng họ có con cháu trưởng thành, phát triển đều có đóng góp công sức của người cao tuổi. Họ có vai trò quan trọng trong việc rèn giũa, trao truyền các giá trị, chuẩn mực văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình và dòng họ đến con cháu.
Trong phòng và chống bạo lực gia đình, do có nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là có uy tín, người cao tuổi thường giữ vai trò là người hòa giải các mâu thuẫn phát sinh trong gia đình. Trong khi giải quyết mâu thuẫn, người cao tuổi chủ yếu sử dụng phương pháp là tâm sự, chia sẻ, khuyên nhủ, động viên con cháu nhận ra “điều hay lẽ phải”, cách thức giải quyết mâu thuẫn vừa nhẹ nhàng nhưng lại hiệu quả. Trong phòng và chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào mỗi gia đình, với kinh nghiệm từng trải, người cao tuổi có bản lĩnh đấu tranh, giáo dục con cháu phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội; tích cực, chủ động trong xây dựng gia đình văn hóa, không tệ nạn xã hội, không bạo hành, tạo ra môi trường an toàn, tốt đẹp nhất để con cháu phát triển. Người cao tuổi có vai trò truyền thụ kỹ năng, kinh nghiệm, kiến thức kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ và các ngành nghề truyền thống cho con cháu; bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ; tích cực tham gia các phong trào khuyến học, khuyến tài, hỗ trợ giáo dục và đào tạo, v.v.. Trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa, người cao tuổi còn có vai trò rất quan trọng trong việc gìn giữ nền nếp, gia phong, vấn đề cốt lõi của VHGĐ. Cả cuộc đời lưu giữ các giá trị, chuẩn mực văn hóa truyền thống nên người cao tuổi đi đầu trong việc bảo lưu văn hóa dân tộc, các khuôn mẫu ứng xử trong các mối quan hệ gia đình. Đối với làng xóm, khu dân cư, người cao tuổi do am hiểu lịch sử, văn hóa nên họ đóng góp công sức, trí tuệ trong việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa ở các địa phương, v.v..
Ba là, Nhà nước và các đoàn thể xã hội cần tăng cường hỗ trợ các gia đình trong việc giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT cho thế hệ trẻ. Trong điều kiện toàn cầu hóa văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước phải luôn quan tâm giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Ban hành các chiến lược, chính sách để giữ gìn VHGĐ truyền thống, đặc biệt cần có chính sách hỗ trợ để xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Cho đến nay, nhận thức về văn hóa truyền thống nói chung và VHGĐ truyền thống nói riêng chưa có sự thống nhất, chưa được lượng hóa để xem yếu tố nào là lạc hậu, bảo thủ không phù hợp với xu thế phát triển của gia đình và xã hội mới để lọc bỏ và yếu tố nào tích cực, phù hợp với xu thế tiến bộ của nhân loại thì cần được tiếp thu, kế thừa và phát triển. Do đó, để có được sự thống nhất trong nhận thức và hành động đối với việc lựa chọn các giá trị, chuẩn mực văn hóa truyền thống trong giáo dục thế hệ trẻ ở gia đình, nhà trường và xã hội thì tất yếu các nhà quản lý, nhà khoa học cần phải xây dựng được một hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT với các tiêu chí cụ thể, dễ đo lường, đánh giá và dễ triển khai thực hiện trong thực tiễn.
Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền văn hóa của GĐTT trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đồng thời, cần tích hợp và lồng ghép các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT trong các môn học ở nhà trường hiện nay. Để nhà trường trở thành một tổ chức giữ gìn và giáo dục có hiệu quả các giá trị, chuẩn mực văn hóa truyền thống thì nhất thiết phải đẩy mạnh đổi mới phương pháp giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa truyền thống để phù hợp với nhận thức, tâm lý, tình cảm của từng lứa tuổi. Thông qua các hoạt động ngoại khoá, hội thi, hội diễn văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống, đặc biệt cần đẩy mạnh hơn nữa các phong trào hướng về cội nguồn, đền ơn đáp nghĩa, v.v. nhằm tạo ra môi trường văn hóa thuận lợi để trẻ em tự hấp thụ và tự nguyện tham gia, từ đó hình thành tình cảm tự nhiên, yêu mến, tạo ra động lực thúc đẩy thế hệ trẻ tìm hiểu các giá trị, chuẩn mực văn hóa truyền thống nói chung, văn hóa của GĐTT nói riêng [1, 143].
Bốn là, hiện nay các nhà khoa học cần phải đánh giá khách quan, toàn diện về các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT, đối chiếu nó với nhu cầu phát triển của gia đình và xã hội hiện đại để làm cơ sở khoa học trong việc xây dựng các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình mới. Trong xây dựng gia đình văn hóa hiện nay, không chỉ kế thừa mà cần phải phát huy các giá trị, chuẩn mực tích cực của VHGĐ truyền thống như: hòa thuận, chung thủy, thương yêu; kính trên, nhường dưới; lòng hiếu thảo; nền nếp gia phong trong gia đình; tinh thần trách nhiệm với dòng họ, cộng đồng, v.v.. Song song với quá trình đó, cần phải ngăn chặn và dần dần xóa bỏ những yếu tố cổ hủ, lạc hậu không phù hợp với đời sống văn hóa của gia đình và xã hội mới hiện nay như tư tưởng gia trưởng; coi thường phụ nữ; tính cục bộ địa phương theo họ tộc; những nghi lễ rườm rà, tốn kém trong ma chay cưới hỏi; sự bất bình đẳng giữa các thế hệ trong gia đình, v.v.. Trong những năm gần đây, trước những tác động tiêu cực của công nghiệp hóa, kinh tế thị trường, văn hóa phương Tây, v.v. đến gia đình Việt Nam, nhiều bậc cha mẹ đã quan tâm nhiều hơn đến việc giữ gìn và giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT cho con cái. Tuy nhiên, cho đến nay, do các nhà khoa học và nhà quản lý vẫn chưa xây dựng được một hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình Việt Nam, đó là nguyên nhân dẫn đến trong nhận thức, thái độ, hành động của gia đình và xã hội phát triển theo hai xu hướng cực đoan đối lập nhau:
Ở xu hướng thứ nhất, những gia đình muốn mở rộng cửa để tiếp thu các giá trị, chuẩn mực văn hóa mới thì tỏ ra e ngại với các giá trị, chuẩn mực truyền thống, xem nó là di sản của xã hội cũ, cản trở mọi sự tiến bộ và phát triển. Biểu hiện rõ nhất ở những gia đình này là xem việc giáo dục VHGĐ phương Tây cho con cái là điều đáng quan tâm, nó có ý nghĩa hơn là dạy cho con cái những triết lý đạo đức, văn hóa truyền thống gắn liền với xã hội cũ. Kết quả của xu hướng cực đoan này là dẫn đến những hiểu biết của thế hệ trẻ về các giá trị, chuẩn mực truyền thống của dân tộc, trong đó có các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT bị sa sút nghiêm trọng. Các nhà nghiên cứu hiện nay đã chỉ ra có một thực tế đáng buồn là sự hiểu biết về các giá trị truyền thống cứ giảm dần theo từng nhóm tuổi từ cao xuống thấp. Đứng trước thực tế này, GS Đặng Cảnh Khanh và GS Lê Thị Quý đã nhận định rằng: “Lớp trẻ sẽ ngày càng quên dần đi bầu không khí văn hóa dân tộc mà mới ngày nào đã nuôi dưỡng và làm nên cuộc sống thực tại của chúng, giống như đã quên đi lời hát ru ngọt ngào người mẹ để chạy theo những tiếng gõ đập rộn rã và mê hoặc của các bản nhạc “rap” thời thượng. Sự nhiễu loạn chuẩn mực của gia đình phương Tây đã thâm nhập mạnh mẽ vào xã hội, giống như nhiều nhà xã hội học ở các nước đang phát triển đã nói, là một thứ “ma túy văn hóa” đối với thế hệ trẻ vậy. Cái cuộc “xâm lăng văn hóa” ấy, nếu không được ngăn chặn kịp thời thì sẽ để lại những hậu quả thật không thể lường hết được” [2, tr. 658].
Ở xu hướng thứ hai, các gia đình ủng hộ việc kế thừa những giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT thì lại muốn sử dụng nó để ngăn chặn làn sóng văn hóa phương Tây đang len lỏi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống gia đình. Theo họ, con cái cần phải được giáo dục nền nếp gia phong trước rồi sau đó mới đến học kiến thức văn hóa. Với cách nhìn nhận cực đoan về VHGĐ truyền thống, đã có lúc, có nơi người ta đã vô tình hay hữu ý làm hồi sinh cả những hủ tục lạc hậu gắn liền với quá khứ. Ở không ít địa phương, bên cạnh việc duy trì và phát huy mặt tích cực của GĐTT, nâng cao vai trò của gia đình và họ tộc trong giáo dục thế hệ trẻ, người ta đã làm tái sinh nhiều hủ tục gắn liền với xã hội và gia đình cũ như thói gia trưởng, sự cấu kết gia đình, họ tộc gây chia rẽ, mất đoàn kết trong gia đình và giữa gia đình với xóm giềng, cộng đồng, cản trở văn hóa nói chung, văn hóa gia đình nói riêng phát triển theo xu hướng tích cực. Như vậy, tăng cường giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐTT là tiền đề để xây dựng nền văn hóa Việt Nam “đậm đà bản sắc dân tộc”, là cơ sở để xây dựng gia đình văn hóa, giúp gia đình Việt Nam tạo ra được bản sắc riêng trong quá trình hội nhập và phát triển.
Các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐVN hiện nay được thể chế hóa thành các chế tài, quy phạm trong luật Hôn nhân và Gia đình, luật Phòng, chống bạo lực gia đình, luật Chăm sóc và bảo vệ trẻ em, v.v. Trong mỗi gia đình, cần phải xây dựng tinh thần dân chủ, bình đẳng, tôn trọng cá nhân trong ứng xử giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, ông bà và các cháu, các thành viên trong họ tộc, v.v.. Trong đó, đặc biệt coi trọng tính bình đẳng, dân chủ giữa vợ và chồng trong gia đình, nó có ý nghĩa lớn đối với con cái, hình thành ở con cái nhận thức đúng về việc tôn trọng quyền con người, sự công bằng và bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình. Do đó, chuẩn mực bình đẳng, dân chủ giữa vợ và chồng trở thành một nét văn hóa tiêu biểu của gia đình mới: bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, yêu thương, đùm bọc nhau, cùng chia sẻ các công việc trong gia đình và xã hội. Vợ và chồng cần có tinh thần tương trợ, chia sẻ cả về quyền lợi lẫn trách nhiệm, cùng góp sức, tự nguyện, tự giác để xây dựng gia đình ổn định, êm ấm. Vợ chồng phải biết tôn trọng lẫn nhau, thương yêu, lấy tình nghĩa làm cơ sở để phấn đấu xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay trước hết thể hiện ở tình yêu thương, gắn bó; sự giúp đỡ, chia sẻ vui buồn; tinh thần trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình trên cơ sở tình yêu, tình nghĩa tự nhiên, huyết thống sâu nặng. Nó còn thể hiện trong giáo dục gia đình, ở đó cha mẹ, ông bà có trách nhiệm nuôi dạy, giáo dục con cháu thành những công dân có ích cho xã hội theo các giá trị, chuẩn mực văn hóa mới, biết yêu thương, tôn trọng cá tính của nhau, kính trên nhường dưới, sống nhân ái, biết hợp tác, chia sẻ; anh chị em trong gia đình biết yêu thương, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, v.v.. Cha mẹ cần bảo đảm quyền bình đẳng, dân chủ, lắng nghe ý kiến, cân nhắc đúng sai, không nên nuông chiều quá mức nhưng cũng không dùng uy quyền để áp đặt, giúp con cái nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với gia đình và đối với xã hội. Con cái hiếu thảo vâng lời cha mẹ, quan tâm đến những vất vả, khó khăn của cha mẹ để cùng chia sẻ, giúp đỡ cha mẹ. Đó là hai mặt tạo nên tình cảm tự nhiên gắn bó giữa cha mẹ và con cái.
Hiện nay, sự biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội đã dẫn đến sự biến đổi các giá trị, chuẩn mực văn hóa điều chỉnh mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Những biến đổi này tạo ra những điều kiện thuận lợi để con cái phát triển, bên cạnh đó cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi để cha mẹ có điều kiện chăm sóc, giáo dục con cái được tốt hơn. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay cũng tạo ra những thách thức không nhỏ trong quan hệ giữa cha mẹ với con cái, nó bắt nguồn từ mặt trái của quá trình đổi mới, của việc phát triển nền kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy, cha mẹ ngày càng có ít thời gian để chăm sóc, giáo dục con cái, chức năng kiểm soát con cái của cha mẹ bị suy giảm trong khi sự bùng nổ của các phương tiện thông tin đại chúng và dịch vụ Internet lại đang tác động hàng ngày, hàng giờ đến thế hệ trẻ. Sự thiếu hụt về kiến thức của cha mẹ đối với sự phát triển và biến đổi tâm, sinh lý của con cái là một nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ mâu thuẫn và xung đột giữa cha mẹ và con cái. Do đó, tăng cường giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình Việt Nam trong hoàn cảnh có sự nhiễu loạn giữa giá trị cũ và mới, giữa bảo thủ, lạc hậu với cách tân, đổi mới để định hình nhân cách cho thế hệ trẻ có vai trò hết sức quan trọng nhằm củng cố sự gắn bó mật thiết mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Bên cạnh đó, việc xây dựng tình thương yêu, hòa thuận giữa anh chị em trong gia đình hiện nay cũng là một yêu cầu đạo đức không thể thiếu trong xây dựng VHGĐ mới. Anh chị em quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau, cùng giúp cha mẹ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình. Tuy nhiên, trong mối quan hệ với cộng đồng, xã hội cần tránh đầu óc gia đình chủ nghĩa, bênh vực, bao che cho anh em, họ hàng. Coi trọng tình nghĩa anh chị em, họ hàng là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, nhưng không thể đặt lợi ích người thân lên trên lợi ích của tập thể, lợi ích của cộng đồng, đó là hạn chế cần khắc phục trong xây dựng VHGĐ Việt Nam hiện nay. Do đó, xây dựng các giá trị, chuẩn mực VHGĐ mới phải là: “Sự kết hợp giữa những giá trị của đạo đức với những quy định của pháp luật. Những quy chuẩn về pháp luật sẽ là cơ sở đảm bảo cho việc phát triển của những quy chuẩn về mặt đạo đức. Ngược lại, những quy chuẩn đạo đức lại là động lực tinh thần, ý thức tự giác cho việc tuân thủ những quy chuẩn pháp luật. Việc tuân thủ những nguyên tắc và chuẩn mực về đạo đức và pháp luật trong các mối quan hệ gia đình là phương thức đúng đắn để xây dựng, củng cố và phát triển những chuẩn mực mới về VHGĐ” [2, tr. 664]
Để giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐVN hiện nay cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
- Cần đẩy mạnh giáo dục các nội dung của VHGĐ Việt Nam hiện nay cho học sinh ở các bậc học, trong đó cần tập trung vào giá trị, chuẩn mực bình đẳng, dân chủ để điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản trong gia đình. Cùng với đó, ở một số địa phương hiện nay cũng xuất hiện các hình thức mới trong giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa cho trẻ em gắn liền với gia đình và cộng đồng dân cư như sinh hoạt văn hóa tại nhà già làng, trưởng bản, sinh hoạt theo cầu thang nhà tập thể, v.v.. Trên hết, trong gia đình, cha mẹ cần phải được trang bị kiến thức về VHGĐ truyền thống và hiện đại, có như vậy họ mới có thể chủ động giáo dục cho con cái các giá trị, chuẩn mực văn hóa đó.
- Cần tạo điều kiện để các câu lạc bộ gia đình văn hóa, gia đình không bạo lực, gia đình không sinh con thứ ba, v.v. ở các địa phương hoạt động hiệu quả. Trong các câu lạc bộ, nếu vận động được nam giới tham gia thì nó sẽ có sức lan tỏa rộng lớn. Trong sinh hoạt ở các câu lạc bộ, vượt qua những rào cản về tâm lý, các thành viên chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục gia đình, phát triển kinh tế, duy trì và bảo vệ hạnh phúc gia đình, v.v.. đó là những kinh nghiệm thực tiễn quý giá giúp các thành viên lưu giữ và phổ biến các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình.
- Cần lồng ghép giới thiệu, quảng bá các giá trị, chuẩn mực của VHGĐ Việt Nam trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong thời gian vừa qua, các phương tiện truyền thông đã chú ý phát hiện và tuyên truyền những tấm gương về lòng hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ, ông bà; tình yêu thương, sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái; sự tương trợ, giúp đỡ của cá nhân và cộng đồng đối với những nhóm yếu thế, v.v.. Những hoạt động đó đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý, tình cảm của cộng đồng, đặc biệt là trẻ em, giúp thế hệ trẻ hình thành tấm lòng vị tha, nhân hậu, yêu thương con người. Về vấn đề này, có lẽ điện ảnh Việt Nam cần phải học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác trên thế giới trong việc giáo dục, phổ biến văn hóa, đặc biệt là VHGĐ thông qua phim ảnh. Trong thời gian vừa qua, các bộ phim truyền hình của Hàn Quốc được công chiếu tại Việt Nam đã phản ánh rất rõ hiện tượng này, nhiều cô gái xinh đẹp, thông minh, hiện đại, nhiều chàng trai trẻ thành đạt là giám đốc, tổng giảm đốc những tập đoàn lớn nhưng trong ứng xử với cha mẹ, ông bà vẫn rất kính trọng, lễ phép, biết lắng nghe những lời khuyên và trên hết là rất coi trọng các giá trị, chuẩn mực văn hóa truyền thống. Lối ứng xử có văn hóa đó đã tác động rất lớn đến tâm lý, tình cảm của người xem. Do đó, để phổ biến các giá trị, chuẩn mực văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung, VHGĐ Việt Nam nói riêng cũng cần phải thực hiện bằng nhiều hình thức gắn với thời đại mới, với cuộc sống hàng ngày thì sức lan tỏa mới nhanh và dễ thấm sâu vào tâm lý, tình cảm, lối sống của con người Việt Nam [1, 146 - 147]. Như vậy, để giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của GĐVN hiện nay cần phải thực hiện nhiều biện pháp, phát huy vai trò của nhiều chủ thể, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú để văn hóa GĐVN được xác lập vững chắc trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội và quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình đang biến đổi.
4. Kết luận
Để hoạt động giáo dục VHGĐ đạt hiệu quả thì cần phải tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường trong quá trình giáo dục. Trước hết, giữa gia đình và nhà trường cần có sự thống nhất về nội dung giáo dục như thống nhất các giá trị, chuẩn mực văn hóa nền tảng để nâng cao nhận thức và thực hành văn hóa ở trẻ em trong quan hệ với bản thân, gia đình, bạn bè, thầy cô, v.v.. Kết hợp việc dạy văn hóa, kiến thức khoa học với việc giáo dục lý tưởng, niềm tin, đạo đức, lao động, thẩm mỹ, sức khỏe, giới tính và các hoạt động thể thao, v.v.. Bên cạnh đó, giữa gia đình và nhà trường cần phải thống nhất về phương pháp giáo dục. Phương pháp giáo dục phải dựa trên cơ sở gắn quá trình giáo dục với quá trình tự giáo dục, kết hợp các hình thức, phương pháp giáo dục đa dạng phù hợp với lứa tuổi và giới tính của trẻ em, có sự linh hoạt và mềm dẻo trong các tình huống cụ thể. Cha mẹ cần chủ động gắn kết với nhà trường, không chỉ thông qua sổ liên lạc mà cần trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với giáo viên phụ trách để nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện của con cái. Trên cở sở hiểu rõ tâm tư, tình cảm và cá tính riêng của từng trẻ mà cha mẹ và giáo viên có thể xác định được các giá trị, chuẩn mực văn hóa nào cần được nhấn mạnh và phương pháp giáo dục nào cần được áp dụng để đem lại hiệu quả trong quá trình giáo dục. Vấn đề này tưởng như đơn giản, nhưng thực tế lại gặp không ít khó khăn, đặc biệt khi một bộ phận cha mẹ vốn sẵn có tư tưởng phó mặc giáo dục con cái cho nhà trường và xã hội. Trong quá trình giáo dục, nhà trường cần chú trọng nhiều hơn đến nội dung giáo dục văn hóa, bổn phận và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình. Ngoài việc tăng cường phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong giáo dục văn hóa gia đình, cần thiết phải phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường và ở địa phương để giáo dục thế hệ trẻ. Mỗi tổ chức, thiết chế đều có vị trí, vai trò riêng, có những cách thức đặc thù để giáo dục, phổ biến các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình đến thế hệ trẻ, tạo ra được môi trường cộng hưởng để nhân cách con người được rèn luyện, hình thành và phát triển.
____________
Tài liệu tham khảo
1.             Lê Văn Hùng, Sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017.
2.             Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý (2009), Gia đình học, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH – NGƯỜI VẬN DỤNG LINH HOẠT, SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM