TƯ TƯỞNG CỦA PH. ĂNGGHEN VỀ GIA ĐÌNH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
TƯ
TƯỞNG CỦA PH. ĂNGGHEN VỀ GIA ĐÌNH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY
Tóm tắt
Gia đình luôn là tế bào của xã hội. Từ trong gia
đình, con người được sinh ra và trưởng thành, được nuôi dưỡng và giáo dục để
hội nhập vào cộng đồng. Nghiên cứu các luận điểm cơ bản của Ph. Ăngghen về gia
đình, qua đó, đánh giá những biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay dưới tác
động của đổi mới, hội nhập có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Bài viết tập trung hệ
thống lại một số quan điểm cơ bản của Ph. Ăngghen về gia đình trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước. Trong tác phẩm này, Ph. Ăngghen đã đứng trên quan điểm duy
vật về lịch sử để phân tích nhiều vấn đề quan trọng của gia đình như nguồn gốc,
vị trí, vai trò của gia đình, các hình thức phát triển của gia đình trong lịch
sử. Trên cơ sở phân tích các quan điểm khoa học đó, tác giả đã phân
tích, đánh giá một số biến đổi về hình thái, cơ cấu của gia đình Việt Nam hiện nay;
phân tích sự biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam được thể
hiện ở sự biến đổi trong quan niệm về người chủ gia đình, về phân công lao động
giữa vợ và chồng trong gia đình, về quyền quyết định các công việc trong gia
đình Việt Nam hiện nay.
1. Mở đầu
Gia đình là một thiết chế xã hội,
có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Tư tưởng chủ đạo của Ph. Ăngghen về
gia đình được trình bày tập trung trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước (1884). Trong tác phẩm này, bằng quan điểm duy
vật về lịch sử, ông đã tập trung phân tích nguồn gốc, vai trò, các hình thức
phát triển của gia đình trong lịch sử. Nghiên
cứu các luận điểm của Ph. Ăngghen về gia đình, trên cơ sở đó đánh giá sự biến
đổi của gia đình Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn to lớn. Đứng trên quan điểm biện chứng, sự biến đổi của gia
đình Việt Nam hiện nay diễn ra toàn diện, bao hàm cả biến đổi tích cực và cả
những biến đổi tiêu cực do sự tác động của nhiều yếu tố khách quan như công
nghiệp hóa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế...
và sự biến đổi từ chính bên trong của thiết chế gia đình.
2. Nội dung
2.1. Tư tưởng của Ph. Ăngghen về gia đình
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước”, Ph. Ăngghen đã phân tích xã hội loài người ở giai đoạn sớm nhất
và làm sáng rõ quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy dẫn đến sự ra
đời của xã hội có giai cấp. Trên cơ sở đó, ông đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm
và sự phát triển của các hình thức gia đình ứng với các hình thái kinh tế - xã
hội khác nhau… Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến một số luận
điểm của Ph. Ăngghen về hình thức gia đình một vợ một chồng, là hình thức gia
đình trong xã hội có giai cấp và là hình thức gia đình phổ biến hiện nay.
- Thứ nhất, Ph. Ăngghen đã kế thừa
quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước đó khi khẳng định sự phát triển của gia
đình trên cơ sở phát triển của sản xuất vật chất. Một mặt, Ph. Ăngghen đã đánh
giá cao quan điểm của Bắchôphen và Moócgan khi cho rằng, gia đình hiện đại là kết quả của sự
phát triển lâu dài trong lịch sử. Mặt khác, theo Ph. Ăngghen, Bắchôphen đã
rơi vào duy tâm khi giải thích nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi gia đình “không
phải là sự phát triển của những điều kiện sinh hoạt thực tế của con người, mà
chính là sự phản ánh có tính chất tôn giáo của những điều kiện sinh hoạt ấy vào
trong đầu óc của chính những con người đó, đã gây ra những biến đổi lịch sử
trong địa vị xã hội của đàn ông và của đàn bà đối với nhau”[1].
Ph. Ăngghen khẳng định đó là “quan niệm coi tôn giáo là đòn bẩy quyết định của
lịch sử thế giới, cuối cùng ắt phải đi đến chủ nghĩa thần bí thuần tuý”2.
Ph. Ăngghen đánh giá cao quan điểm
của Moócgan khi luận giải về sự
phát triển của gia đình diễn ra song song với “những bước tiến đã đạt được trong việc
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt”3.
Với luận điểm này, Moócgan đã đặt nền móng cho quan niệm duy vật trong nghiên
cứu sự phát triển của gia đình. Ph. Ăngghen đã phân tích và nhấn mạnh rằng “nhân
tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời
sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản
xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết
để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác, là sự sản xuất ra bản thân con người, là
sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một
thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại
sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác
là do trình độ phát triển của gia đình”4.
Luận điểm trên của Ph. Ăngghen đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa phát triển
sản xuất với phát triển gia đình, trong đó, sự phát triển của các quan hệ gia
đình và sự biến đổi các hình thức gia đình bị quy định, chi phối bởi sự phát
triển của sản xuất vật chất, đồng thời, các quan hệ gia đình cũng ảnh hưởng tới
các quan hệ xã hội, vì gia đình là “tế bào của xã hội”.
- Thứ hai, Ph. Ăngghen đã chỉ ra sự thay
đổi của các hình thức gia đình trong mối tương quan với sự biến đổi của phương
thức sản xuất vật chất. Gia đình huyết tộc là hình thức thấp của chế độ quần
hôn, được hình thành trên cơ sở kết hôn của những người cùng thế hệ trong một
huyết tộc, nghĩa là hôn nhân mang tính quần hôn giữa những người đàn ông và
những người đàn bà có thể là anh em của nhau. Hình thức gia đình này ra đời dựa
trên chế độ kinh tế cộng sản nguyên thủy, ở đó tư liệu sản xuất thuộc về cộng
đồng, với hình thức này, con không thể biết chính xác ai là cha đẻ, mà chỉ biết
chắc chắn người mẹ, đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hình
thành chế độ mẫu quyền. Gia đình Punaluan đã xóa bỏ hình thức kết hôn của những
người cùng thế hệ trong một huyết tộc. Mặc dù hình thức gia đình này có nhiều
biến đổi theo hướng tiến bộ hơn, tuy nhiên, con vẫn chỉ xác định được mẹ và
người phụ nữ có vai trò quyết định đến sự tồn tại của gia đình. Gia đình cặp
đôi là hình thức gia đình xuất hiện vào thời kỳ cuối của xã hội cộng sản nguyên
thủy. Cơ sở hình thành của hình thức gia đình này là kết hôn từng cặp, tuy vậy,
sự liên kết vợ chồng còn lỏng lẻo, một bên có thể cắt đứt mối quan hệ này và
con chỉ thuộc về người mẹ. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự
phân công lao động, vai trò của người đàn ông ngày càng lớn và dần giữ địa vị
thống trị trong gia đình, đàn ông có xu hướng đảo ngược trật tự thừa kế truyền thống
nhằm có lợi cho con mình. Sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chính
là nguyên nhân xuất hiện hình thức gia đình một vợ, một chồng - còn gọi là chế
độ hôn nhân cá thể.
- Thứ ba, Ph. Ăngghen đã phân tích
những mâu thuẫn của gia đình một vợ một chồng trong xã hội có giai cấp. Theo ông,
“Sự đối lập giai cấp đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là trùng với sự phát
triển của sự đối kháng giữa chồng và vợ trong hôn nhân cá thể, và sự áp bức
giai cấp đầu tiên là trùng với sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà”5. Trong xã hội, một khi xuất hiện
tình trạng chênh lệch về của cải, lao động làm thuê cũng xuất hiện lẻ tẻ bên
cạnh lao động nô lệ và đồng thời, với tư cách là người bạn đường tất yếu của
lao động làm thuê, nghề mại dâm chuyên nghiệp của những phụ nữ tự do cũng xuất
hiện bên cạnh việc nữ nô lệ bắt buộc phải hiến thân cho nam giới. Tất cả những
gì nền văn minh để lại cũng có tính chất hai mặt, hai nghĩa, tự mâu thuẫn và
đối kháng; một mặt là chế độ một vợ một chồng, mặt khác lại là chế độ hêtaia
(nghĩa là quan hệ tình dục ngoài quan hệ vợ chồng), cùng với hình thức cực đoan
của nó là nạn mại dâm công khai.
Bên cạnh đó, mâu thuẫn lại phát
triển ngay trong chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Bên cạnh người chồng lấy chế
độ hêtaia để tô điểm cho cuộc sống của mình, lại có người vợ bị bỏ rơi dẫn đến
tệ ngoại tình trở thành một hiện tượng xã hội không thể nào xóa bỏ được. Bởi vì
“cùng với hình thức hôn nhân cá thể, xuất hiện hai nhân vật xã hội đặc biệt,
không biến đổi mà trước kia chưa từng thấy là: tình nhân thường xuyên của người
vợ và người chồng bị cắm sừng. Đàn ông đã thắng đàn bà, nhưng kẻ bại trận lại
rộng lượng tự tay mình đặt vòng hoa vinh quang lên đầu kẻ chiến thắng. Bên cạnh
hôn nhân cá thể và chế độ hêtaia, tệ ngoại tình đã trở thành một hiện tượng xã
hội không thể nào xóa bỏ được: người ta cấm đoán, trừng trị nghiêm khắc, nhưng
không thể nào nhổ tận gốc nó đi được. Việc xác định người cha đích thực của đứa
con sinh ra, vẫn như trước kia, nhiều lắm cũng chỉ dựa trên niềm tin đạo đức;
và để giải quyết mối mâu thuẫn không thể giải quyết ấy, điều 312 trong Code
Napoleon đã quy định: “Cha của đứa con thụ thai trong thời kỳ kết hôn là người
chồng”6. Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh sự vận
động của các mặt đối lập và những mâu thuẫn gia đình tất sẽ xuất hiện chế độ hôn
nhân một vợ một chồng mới, “chỉ có trong giai cấp vô sản thì tình yêu nam nữ
mới có thể trở thành một quy tắc trong các quan hệ đối với người phụ nữ và thực
tế đang là một quy tắc, mặc dù những quan hệ đó có được công nhận chính thức
hay không. Từ khi đại công nghiệp đã đưa người đàn bà ra khỏi nhà, đem họ ra
thị trường lao động và vào công xưởng và thường biến họ thành người nuôi dưỡng
gia đình, thì trong gia đình người vô sản, những tàn tích cuối cùng của quyền
thống trị của người đàn ông đã mất đi mọi cơ sở - Có lẽ chỉ trừ cái thói thô
bạo với vợ là thói đã thành tập quán từ khi có chế độ một vợ một chồng. Vậy là
gia đình người vô sản không còn có tính chất một vợ một chồng theo nghĩa chặt
chẽ của từ đó, ngay cả khi cả đôi bên đều cùng có một mối tình thắm thiết nhất
và tính chung thủy tuyệt đối nhất, và mặc dù họ đều có tất cả mọi lời chúc phúc
về mặt tôn giáo và thế tục. Cho nên ở đây, những bạn đường thường xuyên của chế
độ một vợ một chồng, tức là chế độ hêtaia và nạn ngoại tình, chỉ đóng một vai
trò hoàn toàn không đáng kể; người vợ đã thật sự giành lại được quyền ly hôn,
và một khi đôi bên không chịu đựng nổi nhau nữa, thì tốt nhất là chia tay. Tóm
lại, “hôn nhân của người vô sản là hôn nhân một vợ một chồng theo ngữ nghĩa
nguyên, chứ tuyệt nhiên không phải theo nghĩa lịch sử của danh từ đó”7. Do vậy, hôn nhân của người vô sản
tiêu biểu cho chế độ hôn nhân một vợ một chồng mới.
- Thứ tư, sự bất bình đẳng giới
trong gia đình một vợ một chồng. Theo Ph. Ăngghen “chế độ một vợ một chồng sinh
ra từ sự tập trung nhiều của cải vào tay một người – vào tay người đàn ông, và
từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái của người đàn ông ấy”8. Bởi vậy, trong gia đình một vợ một
chồng, người chồng có quyền thống trị mọi việc. Sự sinh đẻ ra những đứa con chỉ
có thể là con của người chồng và phải được quyền thừa hưởng tài sản của người
ấy. Đó là những mục đích đặc biệt của chế độ một vợ một chồng thuở ban đầu. Đó
cũng chính là nguồn gốc của chế độ gia trưởng, là căn nguyên gốc rễ bám sâu vào
tư tưởng của những người đàn ông, đặc biệt là cư dân ở châu Á sau này. Ở đây,
Ph. Ăngghen đã chỉ ra bản chất của chế độ hôn nhân cá thể - một vợ một chồng,
xuất hiện trong lịch sử không phải như là sự liên kết hoà hợp giữa đàn ông và
đàn bà, càng không phải là hình thức liên kết cao nhất. Trái lại, đó là sự bất
bình đẳng giới trong gia đình, cũng chính là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng
giới trong xã hội. Bởi vì, “nó thể hiện ra là một sự nô dịch của giới này đối
với giới kia, là việc tuyên bố sự xung đột giữa hai giới, sự xung đột mà người
ta chưa từng thấy trong suốt thời kỳ tiền sử”9.
- Thứ năm, điều kiện và nguyên tắc giải
phóng phụ nữ khỏi áp bức trong gia đình và ngoài xã hội. Theo Ph. Ăngghen, hôn
nhân phải được xác lập trên cơ sở của tình yêu nam nữ và cần phải xóa bỏ sự bất
bình đẳng về kinh tế giữa người đàn ông và người đàn bà trong gia đình, cũng
như sự bất bình đẳng về kinh tế giữa các giai tầng trong xã hội, “điều kiện
tiên quyết để giải phóng phụ nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền
sản xuất xã hội, và điều kiện đó lại đòi hỏi phải làm cho gia đình cá thể không
còn là một đơn vị kinh tế của xã hội nữa”10.
Việc Ph. Ăngghen vạch ra sự bất bình đẳng giới trong gia đình một vợ một chồng
cũng chính là sự bất bình đẳng chung về giới trong xã hội.
Những luận điểm của Ph. Ăngghen về
gia đình đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Mặc dù đấu tranh cho bình đẳng giới đã
được nhiều quốc gia, tổ chức xã hội thực hiện, nhưng kết quả đạt được mới chỉ
dừng ở mức độ khiêm tốn. Ngay trong nhiều nước văn minh, cùng một nghề nghiệp,
cùng một trình độ, cùng một vị trí nhưng thu nhập của nữ giới bao giờ cũng thấp
hơn nam giới. Bởi vậy, đấu tranh giải phóng phụ nữ là một quá trình, cần có sự
tác động tổng hợp, thường xuyên mới có thể thực hiện được.
2.2.
Một số biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay
* Sự biến đổi của hình thái và cơ
cấu hộ gia đình:
Hình thái gia đình Việt Nam truyền thống chủ yếu là gia đình mở rộng gồm nhiều
thế hệ chung sống, các thành viên liên kết với nhau bằng quan hệ huyết thống và
bị chi phối bởi chế độ gia trưởng. Hình thái gia đình này có nhiều ưu điểm
trong xã hội nông nghiệp cổ truyền, tuy nhiên, hiện nay nó không còn là khuôn
mẫu phổ biến của gia đình hiện đại. Theo kết quả điều tra gia đình Việt Nam, mô
hình hộ gia đình hai thế hệ - gia đình hạt nhân (gồm cha mẹ và con) hiện đang
là hình thái gia đình tồn tại phổ biến ở Việt Nam, trong đó hình thái gia đình
hai thế hệ ở khu vực nông thôn cao hơn thành thị, tỉ lệ tương ứng là 64,5% và
60,6%. Hộ gia đình một thế hệ, ở khu vực nông thôn cũng cao hơn thành thị, tỷ
lệ tương ứng là 10,3% và 8,8%. Hộ gia đình 3 thế hệ - gia đình mở rộng thì ở
khu vực thành thị lại cao hơn nông thôn, tỷ lệ tương ứng là 25% và 22,4%11. Một trong những nguyên nhân được chỉ
ra là do điều kiện đất đai và nhà ở tại các khu vực thành thị bị hạn chế, vì
vậy số lượng các thế hệ cùng cư trú trong một hộ tăng lên. Ngoài ra, nhiều gia
đình ở nông thôn thực hiện tách hộ để được chia ruộng đất. Như vậy, trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hình thái gia đình hạt nhân có nhiều ưu
điểm hơn so với một số hình thái gia đình khác (gia đình mở rộng, gia đình
khuyết thiếu…), bởi vì gia đình hạt nhân tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn
nhẹ và có khả năng thích ứng nhanh với các biến chuyển của xã hội: Sau khi kết
hôn, vợ - chồng không sống chung cùng đại gia đình mà tách hộ để xây dựng tổ ấm
riêng. Trọng tâm của mối quan hệ trong gia đình truyền thống là theo chiều dọc thì
trong gia đình Việt Nam hiện nay đang chuyển dần sang quan hệ theo chiều ngang.
Bên cạnh đó, cơ cấu hộ gia đình theo
giới tính của chủ hộ trong gia đình Việt Nam cũng đang có sự biến đổi. Trong
truyền thống, nam giới thường giữ vị trí chủ hộ trong gia đình. Cuộc điều tra
nhân khẩu học và sức khỏe năm 1997 – 1998 cho thấy, tỉ lệ nam giới là chủ hộ là
75,4%, năm 2002 giảm xuống còn 73,2%. Theo khảo sát mức sống năm 2004 thì tỉ lệ
nam giới chủ hộ là 74,3%. Điều tra gia đình Việt Nam 2006 cho thấy, đa số chủ
hộ vẫn là nam giới, chiếm tỉ lệ 76,2% số hộ12.
Như vậy, truyền thống người chồng giữ vai trò là chủ hộ vẫn là phổ biến trong
gia đình Việt Nam hiện nay.
* Sự biến đổi vai trò của người phụ
nữ trong gia đình:
Trong xã hội hiện đại, vị thế của người phụ nữ được xã hội xác nhận trên cơ sở bình
đẳng giới. Phụ nữ ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất, tái sản xuất,
tiếp cận các nguồn lực, tham gia và ra các quyết định trong gia đình. Bên cạnh
đó, các thành viên gia đình và các dịch vụ xã hội từng bước chia sẻ gánh nặng
công việc nội trợ trong gia đình đối với người phụ nữ, tạo điều kiện và cơ hội để
phụ nữ phát triển. Sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình được đánh giá
trên những bình diện sau:
-
Quan niệm về người chủ gia đình: Trong gia đình
truyền thống, do tư tưởng gia trưởng và truyền thống trọng lão chi phối nên người
chủ gia đình thường đồng nhất với người đàn ông lớn tuổi. Điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006 đã chỉ
ra rằng, quan niệm về người chủ gia đình hiện nay không trùng khớp với
người đứng tên là chủ hộ gia đình. Quan
niệm về người chủ gia đình hiện nay đa dạng.
Mô hình người
đàn ông làm chủ gia đình, đây là mô hình tiếp nối gia đình
truyền thống, đồng thời, nó cũng
phản ánh vị trí, vai trò quan trọng của người đàn ông, họ vẫn là người trụ cột về kinh tế, là chủ các tài sản lớn của gia đình
như nhà cửa, đất đai, phương tiện sản xuất, người có uy tín đối với gia đình và
xã hội, v.v..
Mô hình người phụ nữ làm chủ gia đình,
trong không ít gia đình hiện nay, người vợ đã tạo ra được thu nhập cao hơn so với người chồng,
họ ý thức được vị trí, trách nhiệm của mình trong gia đình. Theo
nghiên cứu của tác giả Trần Đức Ngôn năm 2010 cho thấy, có tới 22,5% số người được hỏi khẳng định, thu nhập của họ nhiều hơn của
chồng13. Như vậy, trong gia đình hiện nay
không phải người chồng từ bỏ địa vị, vai trò truyền thống của họ mà do vai trò
kinh tế của người vợ trong gia đình hiện nay được nâng lên nên địa vị của
họ trong
gia đình có sự biến đổi so với
truyền thống.
Mô hình cả hai vợ chồng đều làm chủ gia đình, đây là mô hình gia
đình bình đẳng, các quyết định đều được bàn bạc và tùy từng vấn đề mà có một
người cụ thể quyết định. Cơ sở cho sự hình thành mô hình gia
đình này là sự tương đồng về trình độ
và các yếu tố khác giữa người vợ và người chồng. Khi đóng góp của người vợ vào
thu nhập của gia đình ngày càng tăng lên thì vai trò trụ cột kinh tế của người
chồng suy giảm và đó là lý do để người vợ tham gia quản lý và làm chủ gia đình.
Như
vậy, trong gia đình Việt Nam hiện nay, có sự đa dạng về mô hình người chủ gia
đình, nó phản ánh tính đa dạng của các loại hình gia đình. Người chủ gia đình
hiện nay tùy thuộc vào phẩm chất, năng lực và sự đóng góp của họ trong gia
đình. Điều đó cho thấy, vai trò của người chủ gia đình hiện nay dựa vào điều kiện,
năng lực thực tế của họ chứ không phải là sự “thần thánh hóa”, sự
suy tôn mù quáng tuyệt đối vai trò của người chồng như trong gia đình truyền
thống. Thực tế đó, một mặt, phản ánh tính chất bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình Việt Nam hiện
nay, mặt khác, phản ánh sự vận động và biến đổi của xã hội theo xu hướng ngày
càng bình đẳng, văn minh, tiến bộ hơn.
-
Phân công lao động giữa người vợ và người chồng trong gia đình: Ở nhiều gia đình hiện nay, đặc biệt là gia đình trẻ ở
thành thị đã có sự biến đổi khá rõ trong phân công lao động giữa vợ và chồng.
Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là do sự độc lập về kinh tế của người vợ
(họ có nghề nghiệp, có thu nhập), bên cạnh đó, trình độ học vấn, nhận thức của
cả vợ và chồng ngày một nâng cao, người chồng có sự chia sẻ, thông cảm với người
vợ trong việc mang thai, sinh con và nuôi con. Đặc biệt, trong không ít gia
đình, người chồng cũng quan tâm đến sự tiến bộ và thăng tiến của người vợ nên
đã chủ động chia sẻ các công việc nội trợ, tạo điều kiện để người vợ được học
hành, tham gia các hoạt động xã hội...
Đánh
giá toàn diện sự phân công lao động giữa vợ và chồng hiện nay thì
người vợ vẫn đảm nhiệm chính các công việc tái sản xuất bên trong gia đình như nội trợ,
nuôi dưỡng, chăm sóc con nhỏ, người già, người ốm, trong khi đó, người chồng đảm nhận nhiều hơn công việc bên ngoài gia
đình như sản xuất, kinh doanh... Kết quả nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 cho thấy, có
tới 94,5% số người được hỏi ý kiến cho rằng, trong gia đình, người vợ thường
làm các công việc nội trợ nhiều hơn, chỉ có 5,5% số người cho rằng, người chồng
làm nội trợ nhiều hơn. Không có sự khác biệt đáng kể về ý kiến này ở các đối tượng
khác nhau. Cụ thể 91,5% sinh viên năm cuối ngành khoa học xã hội cho rằng,
trong gia đình người vợ làm công việc nội trợ nhiều hơn người chồng, tỷ lệ này
đối với sinh viên Đại học Kinh tế và công nhân khu công nghiệp là 97,8%, đại diện
hộ gia đình là 92,7%14.
Tuy
nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động đã phá vỡ dần mô hình phân công lao động theo giới
trong gia đình. Có thể nói, sự thay
đổi này bắt đầu từ khi phụ nữ tham gia vào thị trường lao động, xác lập vai trò mới của cả chồng và vợ trong gia đình.
Thực tế cho thấy, khi phụ nữ tạo ra
thu nhập độc lập thì những căng thẳng gắn liền với vai trò kinh tế của người
đàn ông giảm đi, mặt khác, vai trò, vị trí của người phụ nữ được nâng lên do những
đóng góp về kinh tế và quản lý gia đình, mối quan hệ giữa vợ và chồng cũng trở
nên bình đẳng hơn. Nói cách khác, truyền thống người chồng chịu trách nhiệm về
kinh tế, người vợ sinh và nuôi con, làm công việc nội trợ không còn là một mô
hình chuẩn nữa
trong xã hội hiện nay. Vai trò, vị
trí của người phụ nữ trong gia đình được nâng cao khi họ không còn lệ thuộc kinh tế vào người chồng. Tuy
nhiên, thực tế hiện nay, phụ vẫn đang vấp phải rào cản văn hóa buộc họ phải thích ứng
cả hai vai trò, vai trò gia đình và vai trò xã hội, đặc biệt quan niệm phổ
biến của xã hội
hiện nay vẫn kỳ vọng người phụ
nữ vừa phải “giỏi việc nước”, vừa phải “đảm việc nhà” và lấy gia đình làm điểm
quy chiếu quan trọng để đánh giá sự thành đạt, hạnh phúc đối với người phụ nữ
hiện nay.
- Quyền quyết định trong gia đình: Trong gia đình truyền thống, người đàn ông giữ vai trò quyết định các
công việc hệ trọng trong gia đình, tuy nhiên, hiện nay quyền quyết định các công việc quan trọng có thể là người vợ hay người chồng
hoặc do cả hai vợ chồng cùng bàn bạc, thống nhất và quyết định. Điều
này chứng tỏ chế độ gia trưởng, uy quyền tuyệt đối của người chồng
hiện nay đang bị suy giảm, tính bình đẳng được đề cao, được xem là một chuẩn mực mới mà gia đình
Việt Nam tiếp nhận trong quá trình du nhập với văn hóa phương Tây. Nhiều kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mô hình ra quyết định trong gia đình Việt Nam hiện
nay đã có nhiều biến đổi so với gia đình truyền thống. Người vợ không chỉ đảm nhiệm công việc nội trợ, chăm
sóc, giáo dục con mà còn trực tiếp sản xuất tạo ra thu nhập để nuôi sống các
thành viên trong gia đình. Đó là nguyên nhân chủ yếu để
người phụ nữ tham gia quyết định các công việc sản xuất, kinh doanh và các khoản chi tiêu lớn
của gia đình. Nghiên cứu của tác giả Trần Đức Ngôn năm 2010 đã chỉ ra rằng, trong việc
mua nhà thì người vợ quyết định chỉ chiếm 11,8%, người chồng chiếm 84,4% và người
khác là 3,8%; mua sắm các tài sản đắt tiền, người vợ quyết định là 23,1%, người
chồng 79,8% và người khác 2,9%; vui chơi, giải trí, người vợ quyết định chiếm
50,5%, người chồng chỉ chiếm 43,8%, người khác 5,6%; chi tiêu hàng ngày, người
vợ quyết định là 87,1%, người chồng 7,9%, người khác 5%15, v.v... Như vậy, mặc
dù còn bất bình đẳng trong các quyết định giữa vợ và chồng nhưng kết quả đó
cũng chứng tỏ xu hướng bình đẳng đang ngày càng rõ nét hơn. Hiện nay, khi chức năng kinh tế của gia
đình đang có xu hướng biến đổi thành đơn vị tiêu dùng và chung góp thu nhập, sản
phẩm từ thu nhập chủ yếu được quy đổi ra tiền, người vợ vừa là người độc lập
đóng góp về kinh tế, đồng thời, vừa là người giữ “tay hòm chìa khóa” nên người
vợ tham gia vào các quyết định của gia đình tăng lên cũng là tất yếu. Theo thống
kê có tới 73,6% số người được hỏi cho cho rằng, người giữ tiền trong gia đình
là người vợ16.
Như
vậy, gia
đình Việt Nam hiện nay biến đổi theo
xu hướng bình đẳng hơn, vị trí, vai trò của phụ nữ trong
gia đình ngày càng được khẳng
định biểu hiện rõ ở mô hình
người chủ gia đình, phân công lao động giữa vợ và chồng, quyền quyết định các
công việc trong gia đình. Đó là bước tiến của xã hội cần được ghi nhận, tuy nhiên, xét về bản chất, địa vị của người phụ
nữ hiện nay vẫn còn thấp kém. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là do sự bất
bình đẳng về quyền sở hữu tài sản giữa vợ và chồng trong gia đình. Có thể khẳng
định, nếu người vợ không có tài sản và thừa kế tài sản thì dù ở không gian, thời
gian nào, họ vẫn ở địa vị bị phụ thuộc, ở thang bậc thấp hơn so với người chồng
trong gia đình. Kết quả điều tra cho thấy, người chồng vẫn là người chủ sở hữu các tài sản có giá trị
lớn, cụ thể người đứng tên tài sản của gia đình đối với cặp vợ chồng 18 – 60 tuổi,
đối với nhà ở, đất ở: vợ đứng tên chỉ chiếm 10,9%, vợ và chồng đứng tên là
7,8%, trong khi đó người chồng đứng tên lên tới 81,4%; đối với đất canh tác, đất
đồi rừng có tỷ lệ tương ứng là 8,6%, 5,1% và 86,3%; đối với cơ sở sản xuất kinh
doanh có tỷ lệ tương ứng là 41,4%, 6,5% và 52,1%; đối với ô tô có tỷ lệ tương ứng
21,6%, 2,0% và 76,4%; đối với các tài sản có giá trị khác cũng có tỷ lệ tương tự17. Như vậy, sự bất bình đẳng về quyền sở hữu tài sản đã
quy định địa vị và quyền lực thấp kém của người vợ trong
gia đình. Việc người chồng đứng tên phần lớn các tài sản lớn của gia đình bắt
nguồn từ bản chất của chế độ hôn nhân theo dòng cha và truyền thống này vẫn tiếp
tục được duy trì trong gia đình Việt Nam hiện nay, đặc biệt là ở nông thôn, miền núi. Việc không
đứng tên các giấy tờ sở hữu tài sản lớn của gia đình có thể dẫn đến những khó
khăn cho người phụ nữ khi cần thế chấp tài sản để vay vốn phát triển sản xuất,
kinh doanh. Đó cũng là cơ sở để duy trì tư tưởng gia trưởng và là một trong những
nguyên nhân dẫn đến người chồng có quyền quyết định cao hơn người vợ đối với
các công việc quan trọng trong gia đình.
Trong
những năm qua, do tác động của kinh tế và chính sách, pháp luật đã dần dần làm thay đổi truyền
thống về quyền sở hữu tài sản trong gia đình Việt Nam, đặc biệt là tỷ lệ cả hai
vợ chồng cùng đứng tên các giấy tờ sở hữu tài sản ở khu vực đô thị và nhóm hộ
giàu có xu hướng tăng lên so với khu vực nông thôn và nhóm hộ nghèo. Trong một
số năm trở lại đây, pháp luật đã quy định đăng ký quyền sử dụng đất đai, nhà ở
phải ghi tên cả hai vợ chồng. Sự biến đổi này một mặt phản ánh xu thế tiến bộ trong mối
quan hệ giữa vợ và chồng, mặt khác, cũng tiềm ẩn mâu thuẫn mới dẫn đến xung đột
vai trò giữa vợ và chồng trong gia đình, đặc biệt khi vai trò của người chồng
trong gia đình bị suy giảm so với truyền thống, trong khi vai trò của người vợ
ngày càng tăng lên, nếu không chú ý đến công tác tuyên truyền, giáo dục có thể
tiềm ẩn những mâu thuẫn, xung đột phá vỡ mối quan hệ giữa vợ và chồng trong gia
đình.
3.
Kết luận
Luận giải và vận dụng tư tưởng của
Ph. Ăngghen về gia đình với mục đích nhằm giải đáp khoa học một vấn đề đời
thường nhưng không bao giờ cũ chừng nào con người còn tồn tại, đó là vấn đề hôn
nhân, gia đình. Từ những phân tích ở trên cho thấy, tư tưởng về gia đình của
các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đến nay vẫn là cơ sở lý luận khoa học để
nghiên cứu gia đình Việt Nam hiện nay. Hiện nay, gia đình Việt Nam đang có sự
biến đổi toàn diện, sự biến đổi ấy là một quá trình biện chứng nhằm bảo tồn,
phát huy những giá trị của gia đình truyền thống, đồng thời, tiếp thu có chọn
lọc những giá trị của gia đình hiện đại. Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan
trọng của gia đình đối với sự phát triển của xã hội, Đảng ta đã khẳng định:
“Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tế bào lành mạnh của
xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành
nhân cách”18 cho thế hệ trẻ. Có làm
được điều đó thì gia đình mới trở thành cái nôi nuôi dưỡng sự hình thành và
phát triển nhân cách của mỗi người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, Quỹ nhi đồng
Liên hợp quốc (UNICEF) (2008), Kết quả điều
tra Gia đình Việt Nam năm 2006, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3.
C.Mác
và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập
21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4.
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5.
Trần Đức Ngôn (2010), Văn hóa gia đình Việt Nam trong thời đại hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hà Nội.
6.
Lê Ngọc Văn (2010), Một số vấn đề cơ bản về gia đình Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam,
Viện Gia đình và Giới, Hà Nội.
* Khoa Lý luận chính trị và Xã hội, Học
viện Nông nghiệp Việt Nam.
3 C.Mác và Ph.
Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 46.
6 C.Mác và Ph.
Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.107.
7 C.Mác và Ph.
Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.113-114.
8
C.Mác và Ph.
Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.118.
9 C.Mác và Ph.
Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.104.
11 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng
cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)
(2008), Kết quả điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006, Hà Nội, tr. 29.
12 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng
cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)
(2008), Kết quả điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006, Hà Nội, tr. 28
13 Trần Đức Ngôn (2010), Văn hóa gia
đình Việt Nam trong thời đại hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Hà Nội, tr. 154.
14 Lê Ngọc Văn (2010), Một số vấn đề
cơ bản về gia đình Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học
xã hội Việt Nam, Viện Gia đình và Giới, Hà Nội, tr. 168.
15 Trần Đức Ngôn (2010), Văn hóa gia
đình Việt Nam trong thời đại hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Hà Nội, tr. 155.
16 Trần Đức Ngôn (2010), Văn hóa gia
đình Việt Nam trong thời đại hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Hà Nội, tr. 155.
17 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng
cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)
(2008), Kết quả điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006, Hà Nội, tr. 74.
18 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.
77.
Nhận xét
Đăng nhận xét